HÀM NGHI (8/1884-8/1885)
Niên hiệu: Hàm Nghi
Hàm Nghi tên thật là Ưng Lịch, em ruột Kiến Phúc. Sau khi Kiến Phúc bị giết, Ưng Lịch mới 13 tuổi và được đưa lên ngôi ngày 1/8 năm Giáp Thìn (1884). Lúc đó, hoà ước Giáp Thân (6-6-1884) đã được ký kết. Lễ đăng quang của Hàm Nghi không được Nam triều thông báo cho khâm sứ Pháp tại Trung Kỳ, vì thế Rê-na không thừa nhận vua mới. Chúng yêu cầu mời các đại thần cơ mật sang toà Khâm sứ để bàn định nghi thức gặp gỡ giữa vua Hàm Nghi và đại diện tối cao của chính phủ Pháp song Tôn Thất Thuyết từ chối. Tướng Đờ Cuốc-xy doạ sẽ đem quân sang bắt. Trước tình thế không thể trì hoãn, nửa đêm 7/7 năm Ất Tị (1885) Tôn Thất Thuyết ra lệnh tấn công bất ngờ vào đồn Mang Cá và đồn Pháp cạnh toà Khâm sứ. Quân Nam đánh rất hăng hái, song vũ khí quá thô sơ và giao liên non kém nên chỉ mấy giờ sau bị thất bại. Kinh thành Huế thất thủ. Tôn Thất Thuyết hạ lệnh tập hợp tàn quân chực sẵn ở cửa Chương Đức, vào cung vua và tam cung chạy khỏi Hoàng thành xa giá ra Quảng Trị. Đạo Ngự có hơn ngàn người, phần đông là các đại thần, ông hoàng và chúa, già có, trẻ có, đi kiệu, đi ngựa và đi bộ. Hoàng tử Chánh Mông cưỡi ngựa vì chạy nhanh, tiền vàng trong người rải khắp dọc đường. Có bà chúa ôm con khóc sướt mướt trên kiệu. Hàm Nghi ngôi kiệu lâu, kêu mệt, phải chuyển sang nằm võng.
Qua hai ngày đi đường, đoàn ngự ra đến Quảng Trị - Tỉnh quan Quảng Trị ra ngoài thành rước nhà vua và tam cung vào ngự ở hành cung. Chiều 8/7/1885 theo lệnh của Từ Dụ Hoàng thái hậu, Tôn Thất Thuyết chia đạo ngự ra làm hai đoàn: một đoàn theo Từ Dụ trở lại Huế gồm các hoàng thân và quan lại già yếu hoặc nặng gánh gia đình cùng phụ nữ yếu đuối. Một đoàn theo vua ra Tân Sở xây dựng căn cứ chống Pháp. Căn cử Tân Sở nằm trên cao nguyên miền Trung, phía Tây là Lào, Đông là trảng cát khô cằn tỉnh Quảng Trị. Đây là vùng khí hậu khắc nghiệt, cây cối thưa thớt cằn cỗi, mùa hè gió Lào mù mịt, nóng như thiêu đốt. Sau ba ngày ở Tân Sở, Hàm Nghi đòi Tôn Thất Thuyết cho người đưa về Huế. Song trước thái độ kiên quyết của Tôn Thất Thuyết, nhà vua dần dần hiểu ra và quyết tâm kháng chiến. Hàm Nghi đã phê chuẩn Chiếu Cần Vương với ý thức trách nhiệm rất rõ ràng của một ông vua khi có ngoại xâm. Hưởng ứng Chiếu Cần Vương, dân chúng và sĩ phu cả nước liên tiếp đứng dậy cầm vũ khí chống Pháp. Thực dân Pháp vô cùng lúng túng trước phong trào Cần Vương, đã tìm cách bắt cho được Hàm Nghi để dẹp phong trào từ đầu não. Dùng kế phản gián, thực dân đã lừa bắt được Hàm Nghi tại căn cứ ở Hà Tĩnh, đưa xuống thuyền đưa về Huế ngày 14/11 năm Mậu Thân (1888). Bấy giờ vua mới 17 tuổi. Pháp tìm mọi cách thuyết phục Hàm Nghi cộng tác, làm bù nhìn song đều bị nhà vua thẳng thắn khước từ:
- Tôi, thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ chi đến cha mẹ, anh chị em nữa. Không mua chuộc nổi, thực dân Pháp đẩy nhà vua đi an trí tại An-giê (thủ đô Angiêri, thuộc địa của Pháp). Tại đây, Hàm Nghi được đến ở biệt thự thuộc làng Enbia, ngoại ô An-giê. Lúc đầu, nhà vua tẩy chay không chịu học tiếng Pháp. Về sau nghĩ lại, nếu không học thì khó mà hiểu được văn hoá Pháp và thế giới, nhà vua đã học và biết nhanh chóng làm chủ được ngôn ngữ Pháp. Hiểu sâu sắc về văn chương, mỹ thuật Pháp, sau trở thành một hoạ sĩ có tài. Dù vậy, về nhà vua vẫn giữ nguyên tập tục dân tộc: đầu búi tóc, quần the, áo dài Việt Nam.
Hội hoạ, âm nhạc và một gia đình nhỏ gồm 1 vợ và một con gái đã giúp Hàm Nghi khuây khoả phần nào nỗi đau của người dân mất nước, của một ông vua bị đi đày xa. Vua đã sống ở An-giê 47 năm, thọ 64 tuổi.
ĐỒNG KHÁNH (10/1885-12/1888)
Niên hiệu: Đồng Khánh
Sau khi đầy Hàm Nghi, thực dân Pháp bàn với đại thần cơ mật Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình lập Kiến Giang quận công làm vua mới.
Kiến Giang quận công tên thật là Ưng Đường, sinh ngày 12/1 năm Giáp Tí (1864) con trưởng của Kiên quốc công Hồng Cai, mẹ là Bùi Thị. Năm Ất Sửu (1865) lên 2, được đưa vào cung làm con nuôi thứ 2 của Tự Đức. Năm Quí Mùi (1883) được sắc phong là Kiến Giang quận công. Ngày 19/9 năm Ất Tị (1885) dưới quyền bảo trợ và quyết định của Giám quốc người Pháp, Ưng Đường được lập lên làm vua lấy hiệu là. Ngay từ đầu, vua đã trở thành công cụ trong tay người Pháp. Lễ rước vua mới từ Phu Văn Lâu vào điện Càn Thành do Đờ Cuốc-xy và Săm-pô dẫn đầu. Dọc đường rước vua đi qua có lính Pháp bồng súng và lính Nam vác gươm giáo đứng bảo vệ. Lên ngôi, Đồng Khánh không quên ơn người đã tạo dựng cho mình nên ban liền ba đạo dụ phong Đờ Cuốc-xy tước "Bảo hộ quân vương", phong Săm-pô tước "Bảo hộ công" và tướng Oa-rơ-nô tước "Dực quốc công". Đồng Khánh còn nhờ Đờ Cuốc-xy chuyển tới tổng thống Pháp bức điện thư cảm ơn nước Đại Pháp đã hết lòng vun trồng cho mình và cam đoan sẽ mãi mãi giữ trọn tình giao hảo giữa hai nước. Từ đó, ngày nào, vua cũng tiệc tùng với các quan chức cao cấp Pháp, nhất là sau khi đã cưới con gái Nguyễn Hữu Độ.
Đồng Khánh càng thân Pháp thì phong trào Cần Vương chống Pháp ngày càng lan rộng khắp nơi. Thực dân Pháp đã phải thừa nhận: "Chưa hề ở xứ nào, thời nào có một ông vua bị thần dân oán ghét như vua bù nhìn Đồng Khánh!" Đồng Khánh cũng tự thú nhận: "Không đời nào tôi có thể tin rằng Hà Tĩnh, Quảng Bình trung thành với tôi, vì hai tỉnh ấy có nhiều sĩ phu quá!"
Song đời làm vua của Đồng Khánh không được lâu, ngày 25/12 năm Quí Mùi (1888), Đồng Khánh chết bệnh tại chính điện Càn Thành (Huế), 25 tuổi, ở ngôi 3 năm, có 9 người con (6 nam, 3 nữ). Được tôn miếu hiệu Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế.
Còn tiếp
Ý kiến bạn đọc