Vua Gia Long vốn tên là Chủng sau đổi tên là Nguyễn Phúc Ánh (thường gọi tắt là Nguyễn Ánh) là con thứ ba của Nguyễn Phúc Luân, mẹ của Nguyễn Ánh là Nguyễn Thị Hoàn (người làng Minh Linh, phủ Thừa Thiên), Nguyễn Ánh cũng là cháu của chúa Nguyễn Phúc Thuần. Nguyễn Ánh sinh ngày 8-2-1762 (tức 15 tháng 1 năm Nhâm Ngọ) và mất ngày 3-2-1820 (tức 19 tháng 2 năm Kỷ Mão).
Nguyễn Phúc Luân, cha của Nguyễn Ánh bị quyển thần Trương Phúc Loan phế truất và bắt giam, khi đó Nguyễn Ánh mới 4 tuổi và được chúa Nguyễn Phúc Thuần đem vào cung nuôi. Đến năm 1773, Nguyễn Ánh 12 tuổi thì theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Quảng Nam. Mùa thu năm 1777, Nguyễn Ánh 17 tuổi (khi đó nổ ra cuộc khởi nghĩa Tây Sơn), Nguyễn Phúc Thuần bị quân Tây Sơn đánh bại, Nguyễn Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu rồi trở lại Long Xuyên. Một tháng sau, Nguyễn Ánh tập hợp được một đội quân nghĩa dũng, binh sĩ mặc toàn đồ tang quyết tử đánh chiếm lại Sài Gòn. Đỗ Thanh Nhân và một số tướng lĩnh khác giúp Nguyễn Ánh xây dựng lực lượng, đắp lũy đất ở phía tây sông Bến Nghé, đóng cọc gỗ ở các cửa cảng để phòng ngừa tấn công của quân Tây sơn. Lúc này Nguyễn Ánh đã có 50 chiến thuyền.
Thế Tổ Cao Hoàng Đế Gia Long (1762-1820).
Năm 1780, Nguyễn Ánh chính thức lên ngôi vương tại Sài Gòn, dùng ấn “Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo” làm ấn truyền quốc, niên hiệu vẫn theo chính sách nhà Lê, tiếp tục chống lại quân Tây Sơn. Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo quân vào Sài Gòn. Nguyễn Ánh chống lại ở cửa biển những sức yếu đành thua trận, Nguyễn Ánh phải chạy ra biển đến trú ở đảo Phú Quốc. Tháng 8 năm 1782, Nguyễn Ánh thu thập lại toàn quân trở lại Gia Định. Năm 1783 Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi liên tục, Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Côn Lôn. Bị thất bại liên tiếp, Nguyễn Ánh phải trao con là Hoàng tử Cảnh (lúc đó 4 tuổi) cho Đa Bá Lộc làm con tin sang cầu viện nước Pháp, rồi từ biệt gia đình đem quân ra ngoài biển. Ở ngoài biển thiếu lương ăn và nước ngọt, Nguyễn Ánh thường chỉ dùng cơm với mắm tôm và các loại gia vị như gừng, ớt, tỏi, ô mai tán nhỏ hòa lẫn với nhau, Nguyễn Ánh thường ăn cùng bầy tôi và nói “Lam chướng ở rừng ở biển, ăn các thứ này tốt lắm, và để tỏ ra cùng các khanh tân khổ có nhau”.
Năm 1784, Nguyễn Ánh đem gia đình sang Xiêm cầu viện. Mùa hè năm đó nhờ có quân Xiêm mà Nguyễn Ánh chiếm lại Ba Xắc, Trà Ôn, Sa Đéc… Tháng 12 năm 1784, Nguyễn Huệ đem quân vào cứu Sài Gòn, đánh tan quân Xiêm. Thất vọng trước sự bất lực của quân Xiêm, Nguyễn Ánh tăng cường tìm kiếm sự giúp đỡ của người Pháp.
Năm 1787, Nguyễn Ánh bí mật đưa quân về nước. Trên đất nước của mình, Nguyễn Ánh đã cố gắng nhanh chóng tăng cường binh lực. Một loạt chính sách được ban hành. Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm đến phong thưởng và đãi ngộ tướng sĩ đã có công. Vừa củng cố và vừa phát triển lực lượng, năm 1792, Nguyễn Ánh bắt đầu mở các đợt tấn công ra Qui Nhơn theo chiến thuật “tằm ăn lá dâu” và theo từng mùa gió nồm “ gặp gió nồm thuận thì tiến , vãn thì về; khi phát thì quân lính đủ mặt, khi về thì tản ra đồng ruộng”. Sau cái chết của vua Quang Trung, Nguyễn Ánh càng ráo riết thực thi chiến thuật trên. Năm 1788, Nguyễn Ánh chiếm được Qui Nhơn, đổi thành Bình Định. Tháng 6 năm 1801, Nguyễn Ánh tiến quân và chiếm được thành Phú Xuân.
Điện Thái Hòa (nằm trong khu Đại nội, kinh thành Huế),
nơi đăng quang của 13 vua triều Nguyễn, từ vua Gia Long đến vua Bảo Đại.
Năm 1802 khi đã lấy lại được toàn bộ đất đai cũ của các chúa Nguyễn, Nguyễn Ánh cho lập đàn tế cáo trời đất, thiết triều tại Phú Xuân, đặt niên hiệu là Gia Long năm thứ nhất và cử Lê Quang Định làm Chánh sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tên là Nam Việt, nhà Thanh cho rằng tên nước là Nam Việt sẽ lẫn với nước của Triệu Đà (gồm cả Đông Việt và Tây Việt) nên đổi là Việt Nam. Năm 1804 nước ta có tên là Việt Nam. Năm 1806, vua Gia Long chính thức làm lễ xưng đế ở điện Thái Hòa.
Là vua sáng lập triều Nguyễn của một quốc gia thống nhất, vua Gia Long đã quyết định rất nhiều việc để đặt nền móng cho vương triều có một địa bàn thống trị rộng lớn từ Bắc đến Nam. Vua bãi bỏ chức tể tướng để tránh lộng quyền, nghiêm dụ quan lại không được sách nhiễu dân, đặt ra 6 bộ: Bộ Lại (coi việc tuyển bổ quan lại), Bộ Hộ (lo tài chính, thuế khóa), Bộ Lễ (lo việc triều hạ, khánh lễ, học hành), Bộ Binh (việc quốc phòng), Bộ Hình (coi việc pháp luật), Bộ Công (bộ xây dựng), các Bộ do các thượng thư đứng đầu. Vua Gia Long cho tổ chức lại các đơn vị hành chính từ trung ương xuống, quản lý đinh ,khẩu ruộng đất và thuế khóa áp dụng theo hình mẫu thời Lê Sơ nhưng được thực hiện trên quy mô lớn hơn, quy củ hơn. Năm 1815 bộ “Quốc triều hình luật” hay còn gọi là “Luật Gia Long” gồm 22 quyển với 398 điều luật đã được ban hành. Công cuộc khai hoang vùng đồng bằng sông Cửu Long được tiếp tục. Việc trị thủy, đắp đê vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng được vua Gia Long chú ý ngay từ đầu.
Ngai vàng của vua Nguyễn trong Điện Thái Hòa.
Về đối ngoại, một mặt vua Gia Long tranh thử sự ủng hộ và giữ lễ thần phục của nhà Thanh, mặt khác vua Gia Long lại dùng lực lượng quân sự bắt các nước Chân Lạp và Ai Lao phải thuần phục. Đối với các nước phương Tây, vua Gia Long tỏ ra nghi ngại, nước Anh xin mở của hàng buôn bán vua đã từ chối, những yêu sách của chính phủ Pháp đều bị vua khước từ.
Vua Gia Long cũng rất chú trọng việc học hành, Vua cho dựng Văn Thánh ở làng An Ninh nằm về phía Tây Kinh thành và các doanh trấn để thờ Khổng Tử, lập Quốc Tử Giám ở Kinh đô để dạy các quan và sĩ tử ưu tú trong nước, năm 1807 mở khoa thi Hương đầu tiên của triều Nguyễn. Bản thân nhà vua, ngoài việc học Đạo Nho, ông còn nghiên cứu văn hóa phương Tây vì vậy vua Gia Long có đủ kiến thức để chỉ đạo đóng các thuyền chiến bằng đồng. Vua Gia long còn cho xây dựng lại Kinh thành Huế theo kiểu kết hợp giữa kiến trúc xây phòng thành của Việt Nam và của Pháp, tồn tại cho đến ngày nay.
Theo sách “Chín đời chúa, mười ba đời vua” của Nguyễn Đắc Xuân, tháng 11 năm 1818, vua Gia Long lâm bệnh và vua hạ chiếu cho Thái tử Nguyễn Phúc Đảm thay vua quyết định việc nước (vua Gia Long có 13 Thái tử và 18 Công chúa, vua quyết định chọn vị Thái tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm làm người kế vị, vì Thái tử Đảm vốn là người hay bài xích đạo Công giáo và không có chút tình cảm nào với người Pháp – tư tưởng này hợp với vua Gia Long. Đồng thời vua Gia Long đã viết trong di chiếu rất rõ rằng: “Hãy đối sử tử tế với người Âu nhưng hết sức cảnh giác trước các tham vọng của họ”).
Lăng vua Gia Long (Thiên Thọ Lăng) tại làng Đình Môn, Hương Trà, Huế.
Ngày 19 tháng 2 năm Kỷ Mão (tức ngày 3 tháng 2 năm 1820) vua Gia Long qua đời, thọ 59 tuổi, ở ngôi 18 năm, miếu hiệu là Thế Tổ, thụy hiệu Cao Hoàng Đế. Lăng của vua Gia Long hiệu Thiên Thọ, tại làng Đình Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tôn thờ vua Gia Long tại Chánh Án Miếu ở Thế Miếu trong Đại nội Kinh thành Huế.