Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Trích Triều Mạc)

Thứ năm - 19/09/2024 20:54 259 0

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Trích Triều Mạc)

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư; Soạn giả: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, v.v...   : năm 1697; Dịch giả: Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam: năm 1985 - 1992
 
Bản in Nội Các Quan Bn
Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697)

Tựa sách: Đi Việt Sử Ký Toàn Thư
Soạn giả: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, v.v...   : năm 1697
Dịch giả: Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam: năm 1985 - 1992
Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội - Hà Ni: năm 1993
Chuyển sang ấn bản đin tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ,
Ngọc Thủy,Tuyết Mai, Hng Ty, Nguyễn Quang Trung: năm 2001
Điều hp:Lê Bắc - bacle@hotmail.com: năm 2001

 
Phụ: Mạc Đăng Dung
(Tiếm ngôi 3 năm, sau tiếm truy tôn là Thái Tổ)
Đăng Dung người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương1, hồi nhỏ làm nghề đánh cá, lớn lên có sức kho, thi đỗ lực sĩ xut thân. Đi Hng Thuận, được thăng làm Đô chỉ huy sứ Vũ Xuyên bá, làm quan trải hai triều. Đời Thng Nguyên, làm đến Thái sư Nhân quc công, sau được phong làm An Hưng Vương. Ngầm kết bè đng, trong ngoài hiệp mưu, lòng người quy phụ, rồi làm việc cướp ngôi, giết vua, làm gi tờ chiếu nhường ngôi mà lên ngôi thực.
Tháng này, Đăng Dung vào thành Thăng Long, ở tại chính điện.

Đăng Bính bàn rằng: Bản kỷ nói họ Mạc thay nhà Lê có lẽ là để sáng rõ cái mầm soán nghịch. [70a] Trong lúc ấy, các đại thần cả triều đều trơ mt ngậm miệng, người nọ liếc trm người kia. Ví thử trong triều nhà Lê, giết kẻ phn nghịch, ngăn việc hung ác để trị tội kẻ bạn thn thì việc khôi phục xã tắc vẫn có thể làm đưc, sao lại cam tâm gi chức, nương tựa sủng lộc, để tạm hưng phú quý, mong được khi chết? Lại còn trổ mưu khen ngầm xui kín, giúp cho nó được thể, để cu hiển vinh, khiến cho họ Mạ ngày càng kiêu lộng, được tự chuyên quyền, trên đã không có phận vua tôi, dưới lại manh tâm làm việc soán nghịch. Tham tiếc tưc lộc, tổn hại trung nghĩa, hành đng như chó lợn, tội ác đã sờ sờ, so với các bậc hiền thn ngày xưa thì kém xa lắm. Lúc bấy giờ, kẻ quyền gian thế lớn, bọn thn hạ khác [70b] lòng, thiên tử bị cô lập tn, cả triều không một ai có thể uỷ thác được, muốn không sụp đổ, có thể được không? Rt cuc xy ra mối hoạ cho Quang Thiệu, Thống Nguyên, bức hiếp lòng người, di vua đến gò
1 Nghi Dương: sau là huyện Kiến Thuỵ, tỉnh Kiến An, nay thuc thành phố Hải Phòng.
592                                                Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XV
hoang, cướp lấy thiên hạ của triều Lê, tiếm xưng vị hiệu, vào ở nhà vàng, đủ vành giảo quyệt. Ly một xó đất Hải Dương gọi là Dương Kinh, tự tiện phế bỏ lăng tm của Lê triều, chém giết con cháu các công thn đời trước. Xét những việc làm của nó, không khác gì Tào Tháo. Đáng đau xót biết chừng nào!
Đăng Dung phong cho người tông thất mình là Mạc... (không rõ tên) làm Tĩnh quốc công, trung quan Nguyễn Thế Ân làm Lỵ quốc công (người xã MTrch, huyện Đường An1) để giúp dập ở bên cạnh mình. Thần dân đều thất vng, cả nước hoang mang. Đăng Dung sợ lòng người nhớ vua cũ, để lâu lại sinh biến, nên phải tuân giữ [71a] pháp độ của triều Lê, không dám thay đổi, phủ dụ thn dân, trấn áp lòng người, che bịt tai mắt họ. Li lập mưu vờ tìm con cháu các nhà thế gia công thần. Bấy giờ, những người ấy phần nhiều ẩn náu chy trốn vào núi rừng, người thì ẩn giấu họ tên không chịu ra, kẻ thì tụ hp nhau thành đng cướp, có người đi làm quan với nước ngoài để tm sng, không còn biết là theo ai nữa.
Mậu Tý, [1528], (Mạc tiếm hiệu Minh Đức năm thứ 2; Minh Gia Tĩnh năm thứ 7). Mùa xuân, tháng giêng, bấy giờ Đăng Dung muốn đổi làm chính lệnh mới, bèn sai đúc tiền Thông Bảo theo kiểu cách đng tiền cũ, nhưng phần nhiều không thành. Sau lại đúc các loại tiền gián pha kẽm và sắt ban hành các xứ trong nước để thông dụng.
Đăng Bính bàn rằng: Năm trưc họ Mc tuy đã đưc nhường ngôi nhưng vn ghi năm Thống Nguyên thứ 6 của triều Lê [71b] làm chính thống. Từ đây về sau, triều Lê không còn niên hiệu để chép nữa, mới lấy niên hiệu Minh Đức của họ Mạc chú riêng thành hai hàng, không được chép thành kỷ chính thống là để tỏ rõ cướp ngôi là nguỵ. Đến năm Quý Tỵ, Trang Tông lại khởi binh ở Ai Lao, trong nước tuy chưa khôi phục được hết, nhưng cũng chép thành kỷ chính thống để tỏ rõ phn vua tôi phi như vy.
Tháng 2, Đăng Dung lấy Nguyễn Quốc Hiến làm Phò mã đô uý thái bảo lâm quốc công, ban cho họ Mạc; Mạc Quc Trinh làm Thái sư Lâm quốc công, Mc Đình Khoa làm Tả đô đốc Khiêm quốc công. Bọn Thiếu bảo Thông quc công Nguyễn Thì Ung, Lai quốc công Trn Phỉ, Thun Khê hầu Khuất Quỳnh Cửu, Khánh Khê hầu Nguyễn Bỉnh Đức, Hoàng Lễ hầu Phm Gia Mô, Lan [72a] Xuyên bá Phan Đình Tá, Đo Xuyên hầu Nguyễn Văn Thái, Văn Đạt bá Nguyễn Mu, Sùng Lễ bá Hà Cảnh Đo, Nghi Xuyên bá Mc Ích Trưng, Hưng Ân bá Nguyễn Tuệ.
Lộc Hiến hu Nguyễn Địch, Văn Trường bá Phạm Chính Nghị, Văn Đẩu hầu Nguyễn Chuyên Mỹ, Hà Phần bá Nguyễn Độ, Tô Xuyên hầu Lê Quang Bí, Văn Ninh hu Nguyễn Điển Kính và Trung quan chưởng giám Nguyễn Hu Liêm gm 56 người đu được thăng trật, ban tưc có thứ bậc khác nhau.
Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo cho nhà Minh rằng: Con cháu họ Lê không còn ai thừa tự nữa, dặn lại cho đại thần là họ Mạc tm coi việc nưc, cai trị dân chúng. Vua Minh không tin, bí mật sai người sang dò thăm tin tức trong nước, xét hi nguyên do, ngầm tìm con cháu họ Lê để lập lên. Họ Mc thường trả lời bằng những lời lẽ văn hoa, lại [72b] đem nhiều vàng bạc đút lót. Đến khi sứ gi về, mật tâu là con cháu họ Lê đã hết, không ai nối ngôi đưc, đã uỷ thác cho họ Mạc. Người trong nước đu tôn phục và theo về họ Mc cả, xin tha tội cho họ. Vua Minh mắng không nghe, Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi ti, bèn lập mưu cắt đất dâng nhân dân hay châu Quy, Thuận và hai tưng người bng vàng và bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua Minh thu nhận. Từ đy Nam Bc li thông sđi lại2.
Mùa đông, tháng 10, Đăng Dung cho là sau khi bình yên, chế độ dần dần lỏng lẻo, ý mun đổi thay chn chỉnh lại, liền sai bề tôi là bọn Quốc Hiến bàn định binh chế, điền chế, lộc chế và đt bn vệ Hưng quc, Chiêu vũ, Cm y, Kim ngô, năm phủ, các vệ sở trong ngoài, các ty sở thuộc, hiệu ty, tên quan và số lại viên, số người, số lính của các nha môn, [73a] phng theo quan chế triều trưc, y lệ mà biên chế bổ sung. Lấy quân trấn giữ xứ Hải Dương cho lệ thuc vào vệ Hưng quc, quân trấn giữ Sơn Nam lệ thuc vào vệ Chiêu vũ, quân trấn giữ xứ Sơn Tây lệ thuc vào vệ Cẩm y, quân trấn giữ xứ Kinh

1 Đường An: sau là huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
2 Về việc nộp đất, không thấy Minh sử ghi lại. Hai châu Quy Thuận đã bị nhà Tống chiếm từ đời Lý, đó là hai châu Quy Hoá và Thuận An. Hai châu này sau trở thành châu Quy Thuận của tnh Quảng Tây.
593                                                Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XV
Bắc lệ thuộc vào vệ Kim ngô. Phân bổ các ty, mỗi ty đặt 1 viên chỉ huy sứ, 1 viên chỉ huy đồng tri, 1 viên chỉ huy thiêm sự, 10 viên trung hiệu, 1100 trung sĩ, chia thành 22 phiên để túc trực. Nếu có công lao thì bổ lên các chức thiên h, thng chế, quản lĩnh, trung uý. Mỗi vệ đt 1 viên thư ký, dùng hạng ký lục xut thân khi trước, như là bổ các chức thủ lĩnh mục dân. Còn các trung sĩ thì theo lệ chia phiên, mi phiên chia thành 5 giáp, mi giáp đặt mt viên giáp thủ, quan bản ty chọn lấy hng trung hiệu người nào đích [73b] đáng thì làm bản đưa lên để thăng b.
Kỷ Sửu, [1529], (Mc Minh Đức năm thứ 3; Minh Gia Tĩnh năm thứ 8). Khi ấy, bề tôi cũ của triều Lê là hai anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang chạy sang tố cáo với nhà Minh. Họ Mc đem nhiều lễ đút lót cho nhà Minh1 để phá. Việc không thành, hai anh em đều chết ở bên Minh.
Bấy giờ, bn Thanh Hoa hữu vệ điện tiền tướng quân An Thanh hầu Nguyễn Kim (người Bái Trang, huyện Tống Sơn2, thuyết nói là con của Hoằng Dụ) dn con em chy sang Ai Lao. Chúa nước ấy là Sạ Đẩu cho rằng ta là nước có quan hệ môi răng với h, mới đem nhân dân và đất đai Sầm Châu cấp cho Kim. Từ đó, Nguyễn Kim nuôi dưỡng sĩ tt, chiêu np những kẻ chy trn, làm phn, ngầm tìm con cháu họ Lê lập nên để mưu khôi phục.
Họ Mạc mở khoa thi Hi. Cho bọn Đỗ Tống (người xã Li Ốc, huyện Văn Giang), Nguyễn Hãng, Nguyễn Văn Huy 3 người đỗ tiến sĩ cp đệ; bn Nguyễn Văn Quang 8 người đỗ tiến sĩ xut thân; [74a] bọn Nguyễn Hữu Hoán 16 người đỗ đồng tiến sĩ xut thân.
Mùa đông, tháng 12, khi ấy, Mạc Đăng Dung cướp ngôi đã được 3 năm, tự thấy mình tuổi già, bèn truyền ngôi cho con trưởng là Đăng Doanh, tự xưng là Thái thượng hoàng, ra ở điện Tường Quang, coi nghề đánh cá là thú ngao du tự lạc.
Mạc Đăng Doanh
(Con trưng Đăng Dung, tiếm ngôi 11 năm, sau tiếm truy xưng tôn hiệu là Thái Tông)
Canh Dần, [1530] (Mc Đi Chính năm thứ 1; Minh Gia Tĩnh năm thứ 9). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mng 1, Mc Đăng Dung tiếm ngôi, đại xá, đổi niên hiệu Đại Chính.
Bấy giờ, Lê Ý, người Thanh Hoa, là cháu ngoại họ Lê, căm giận họ Mạc cưp ngôi, mới nổi quân ở Da Châu3, lại xưng niên hiệu Quang Thiệu, nhiều người theo về, trong khoảng mươi hôm, một tháng, nhiều quận huyện hưởng ứng, số quân có đến vài vn người. Bèn cùng với bn bộ tướng [74b] Lê Như Bích, Lê Bá Tạo, Hà Công Liêu, Lê Tông Xá, Nguyễn Cảo dàn bày doanh trận, chi đặt cơ đội, bộ ngũ, ni súng lệnh, kéo cờ hiệu, đóng quân ở sông Mã. Từ đy, các hào kiệt xa gn đều cho là họ Lê sẽ phục hưng, cùng nhau phấn khởi theo về, không đến vài năm mà quân thanh rất lừng lẫy.
Tháng 3, đại hn, có sâu lúa, lúa má chết khô, đến hạ tuần tháng 6 mới mưa.
Mùa hạ, tháng 4, Đăng Dung tự mình chỉ huy vài vạn quân thủy bộ đi đánh Lê Ý ở sông Mã. Quân của Đăng Dung thường thua luôn, bèn lui về Kinh sư, để lại bn Thái sư lân quốc công Mạc Quốc Trinh trấn giữ dinh Hoa Lâm. Sau Quốc Trinh lui về giữ Tống Giang4.
Mùa thu, tháng 7, Lê Ý tiến quân đóng ở thành Tây Đô, lập hành dinh sông Nghĩa Lộ. Khi y [75a] có người dâng bộ hoàng bào và hai chiếc lọng vàng, tướng sĩ long trng chúc mừng.

1 CMCB 27 chép là đút lót cho biên thần nhà Minh.
2 Tống Sơn: tên huyện, nay là huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá.
3 Da Châu: tức châu Quan Da, sau là châu Quan Hoá, tỉnh Thanh Hóa.
4 Tống Giang: con sông bắt nguồn từ Nho Quan, Ninh Bình, chạy qua Thạch Thành, xuống Tống Sơn, rồi chia thành hai nhánh, một nhánh ra cửa Bạch Câu, một nhánh ra sông Chính Đại.
594                                                Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XV
Tháng 8, ngày 23, Đăng Dung đã về Kinh, Đăng Doanh lại đem quân vào Thanh Hoa, hội quân lớn ở sông Hoằng Hoá1, chia quân làm hai đo cùng tiến. Mc Quốc Trinh dẫn 200 chiếc thuyn chiến tiến trước, hẹn hôm sau s đến sông Đa Lộc (có sách chép là sông Liệt Thị2, ở Yên Định). Khi ấy, Lê Ý đã dự phòng trước, dàn nghi binh ở sông Đa Lộc ri tự mình đem quân đến bên sông tinh nhuệ ngm tiến ban đêm, đi tắt đường trong huyện, đến sáng thì quân đến bên sông Yên Sơn3, phát ba tiếng súng hiệu, đánh chn hậu quân của Quc Trinh. Quân Mạc sợ hãi tan vỡ, bỏ cả thuyền nhy lên bờ chạy tán lon. Ý cưỡi ngựa đốc sut các tướng xông vào trận đánh, tự tay đâm chết hơn 70 tên. Quân Mc tan vỡ, quân Ý thừa thắng đui đánh, chém đu nhiều vô kể. Ngày Ngọ hôm y, Đăng [75b] Doanh chưa biết Quc Trinh đã bị thua, tự mình đốc suất người tông tht tiến quân đến xã Động Bàng đđui theo sau quân của Lê Ý, Ý nghe tin, liền hăng hái ra lệnh cho các tướng rằng: Hôm nay gặp bn giặc lớn đây, nếu không đánh, thì ngày nào mới hưng phục được triều Lê. Các tướng nghe lệnh, đều dc sức tung quân tiến đánh, cản phá quân Mạc, chém hơn mt vạn tên, xác chết gối lên nhau. Đăng Doanh lui quân cố thủ. Quân Ý một ngày hai lần thắng trn, uy thanh vang dội, quân Mc chạy dài.
Mùa đông, tháng 11, Đăng Doanh trở về Kinh sư. Tháng 12, Lê Ý bị quân Mạc bắt sống.
Bấy giờ, Ý thu quân, triệt phá doanh trại, lui về đóng ở Da Châu, vì quân vừa thắng trận, sinh lòng kiêu ngạo, không có phòng bị trước, hơi có ý coi thường quân địch. Đến đây, quân ít, lương hết, sai tướng sĩ vào xa trong núi vận chuyển lương thực, vì thế, doanh trại bỏ trống, đội [76a] ngũ rời rạc. Có người đến báo tin cho Mạc Quc Trinh. Trinh liền chn quân tinh nhuệ, và 50 chiếc thuyền chiến ngày đêm đi gp, tiến đến tri Da Châu. Ý xông ra đánh không đưc, bị quân Mạc bắt, toàn quân tan vỡ tháo chạy. Người thì chạy sang Ai Lao theo An Thanh hầu Nguyễn Kim, kẻ thì phân tán trở về đng ruộng. Quốc Trinh đóng cũi giải Ý về kinh sư, dùng xe xé xác ở ngoài cửa Nam thành.
Tân Mão, [1531], (Mc Đại Chính năm thứ 2; Minh Gia Tĩnh năm thứ 10). Cựu thn nhà Lê là bọn Bích Khê hầu Lê Công Uyên, Nguyễn Ngãi, Nguyễn Thọ Trường, Nguyễn Nhân Liên (Công Uyên người làng Ho Lịch, huyện Lôi Dương4; Thọ Trường người làng Hà Nội, huyện Nông Cống5; Nhân Liên người huyện Chương Nghĩa6 xứ Qung Nam) dấy quân Thanh Hoa. Bấy giờ, bọn Công Uyên căm giận họ Mạc không giữ đạo vua tôi, liền tự đem con em về Thanh Hoa nổi quân, cũng xưng là quân của nhà Lê, bắt người cướp của, đt phá nhà dân ở các qun huyện. Bn này kẻ thì chết trn, kẻ thì bị bắt giải về Kinh cả. [76b] Chỉ có dân mt phương ở đây chịu tai hoạ, không được nghĩ ngơi, nhân dân đói kém, 1 thăng gạo giá tới 1 quan tiền. Sau đó người Sơn Đông7 tên là Hùng Sơn có ti với họ Mạc đem con em vài trăm người trn vào Thanh Hoa, dựng doanh trại chiếm giữ được vài tháng. Đăng Doanh sai tướng đi đánh. Sơn lui đóng ở thôn Ngc Huân rồi ốm chết, quân bị tan.
Nhâm Thìn, [1532], (Mạc Đại Chính năm thứ 3; Minh Gia Tĩnh năm thứ 11). Mùa xuân, họ Mc mở khoa thi Hội, cho bọn Nguyễn Thiến (người làng Canh Hoch, huyện Thanh Oai, làm quan đến Thượng thư Thư quc công, sau theo về nhà Lê, là cha Quyện), Bùi Vĩnh, Ngô Sơn Khoái 3 người đỗ tiến sĩ cập đ, bn Nguyễn Địch Khang 6 người đỗ tiến sĩ xut thân; bọn Nguyễn Lương Bật 18 người đỗ đng tiến sĩ xuất thân.

1 Sông Hoằng Hoá: tức sông Ngu Giang, nay là sông Lạch Trường.
2
Liệt Thị: Tức là chợ Sét, thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá.

3 Sông Yên Sơn: khúc sông Mã phía dưới chợ Sét.
4 Lôi Dương: Tên huyện, nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá.
5 Nông Cng: tên huyện, nay là huyện Nông Cống và huyện Triệu Sơn, tnh Thanh Hoá.
6 Chương Nghĩa: tên huyện: là huyện Tư Nghĩa và một phần huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Quảng Ngãi.
7 Có lẽ là Đông Sơn, tên huyện ở Thanh Hoa.
595                                                Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XV
Họ Mc ra lệnh cm người các xứ trong, ngoài không đưc cm giáo mác và [77a] dao nhn, can qua, cùng những binh khí khác hoành hành trên đường đi.
Ai vi phm thì cho phép ty bắt giữ. Từ đy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem v, chỉ cần mỗi tháng xem li mt lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc nhà mình. Trong khoảng vài năm, ngưi đi đường không nhặt của rơi, cng ngoài không phi đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tm yên.
Mùa đông, tháng 10, Đăng Dung ra sc lệnh cho hon quan Trung Hậu hầu (không rõ họ tên, người Hong Hoá) làm đi tướng quân, sai đem quân coi chung ba phủ Thanh Hoa cùng các quan ba ty tổng trấn quân dân cả một phương. Tây An bá Lê Phi Thừa (người xã Hương Thị, huyện Yên Định) gièm rằng: Đất Ái Châu, núi sông hiểm trở, ruộng đất phì nhiêu, binh lương giàu đủ, vả lại binh quyền nên chia ra chứ không nên cho chuyện, nếu chuyên quyền tt dn tới tai ho, lỡ xy ra sự biến cố thì sợ rằng sau sẽ khó chế ngự, và đt ấy [77b] sẽ không phi là của triều đình nữa. Thần xin xét kỹ lại, đừng để sau này hối hn. Đăng Doanh bèn chia Thanh Hoa ra làm đôi: 7 huyện Thuỵ Nguyên1 Yên Định, Vĩnh Phúc2, Đông Sơn, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Quảng Bình3 thì giao cho Lê Phi Thừa qun lĩnh, cùng với Trung Hu hu, thành thế khng chế lẫn nhau. Đến khi Phi Thừa đưc quyền, càng thêm kiêu căng phóng túng và cui cùng đã sinh đổi lòng4.
Tháng ấy, sao Chi hiện ở phương đông.
Tháng 12, cựu thần nhà Lê là An Thanh hầu Nguyễn Kim tôn lập con Chiêu Tông là Ninh ở Ai Lao5. Trước đây, Kim ở Ai Lao nuôi quân chứa sức, sai người về trong nước tìm kiếm khp con cháu nhà Lê, tìm đưc con Chiêu Tông là Ninh lập lên làm vua, đi niên hiệu là Nguyên Hoà (tức là Trang Tông) để sửa lại quc thống. Từ đy, hào kiệt miền tây phn nhiều quy phụ. Vua phong Kim là Thái sư Hưng quốc công và [78a] phong các tướng tá theo thứ bậc. Mọi việc quân dân, không cứ lớn hay nhỏ, đu giao cho trông coi, ngày đêm cùng mưu, chung lo việc khôi phục.

Đăng Bính bàn rằng: Triều Lê nhưng may nửa chừng suy yếu, đến đây là tận cùng rồi. Cho nên tôi vẫn nói6 họ Mc là bề tôi phn nghịch của nhà Lê. Đến khi vua Lê lên ngôi Ai Lao, mới chép thành niên hiệu chính thống, cốt làm rõ danh phận vua tôi và sửa lại giềng mối lớn đó. Bấy giờ họ Mạc đã lấy được cả nước mà không coi là chính thng để ghi chép lại là cớ làm sao? Vì họ Mạc là bề tôi. Vua Lê tuy lên ngôi ở bên ngoài, ẩn náu ở nước láng giềng, không có lấy mt tc đất, một người dân, nhưng vẫn ghi thành kỷ chính thng là cớ làm sao? Vì họ Lê là vua vậy! Nhưng xét người xưa đã có câu: Thiên hạ không phi [78b] là thiên hạ của mt người. Từ xưa, Viêm Đế bt đu phong nước Nam đến nay, vua hiền chúa giỏi các đời, người thì đánh dẹp mà thôn tính cả nước, người thì truyền lại cho đi sau giữ ngôi, đều là ni đời làm vua c.
Vì có vị hiệu nên mới ghi thành kỷ chính thống, như là Bản kỷ, Chính kỷ, Tiền kỷ, Hu kỷ, Trung kỷ, Mt kỷ đều thun cả thôi. Còn như kẻ bội nghịch cướp ngôi, giết vua rồi miễn cưỡng tự lập, thì dẫu có xưng danh hiệu, cũng đu là danh bất chính lời không thun cả, thì chép thành kỷ phụ, đu là nghịch cả thôi. Từ Triệu Việt Vương nổi lên, thì vốn là bề tôi của Lý Nam Đế. Nối Nam Đế mà lấy đưc nước, ri sau mới lên ngôi, xưng vương, là [79a] bề tôi mà có thể thay vua trị nước, nhưng thế là thuận. Đinh Tiên Hoàng dẹp lon mười hai sứ quân mà lấy cả nước, Thiếu Đế hèn yếu không chống đưc giặc, đem việc nưc trao cả cho đi tướng Lê Hoàn, rồi Lê Hoàn đưc bà hoàng hu của vua Đinh truyền ngôi cho
1 Thuỵ Nguyên: tên huyện, nay là huyện Thiệu Hoá.
2
Vĩnh Phúc: tên huyện, sau là huyện Vĩnh Lộc.

3 Quảng Bình: tên huyện, sau đổi là Quang Địa, rồi Quảng Tế nay là phần tây bắc huyện Thạch Thành.
4 Sau Phí Thừa bỏ Mạc, chạy theo Nguyễn Kim.

5 Nguyễn Kim chạy sang Ai Lao, vua Ai Lao là Sạ Đẩu cho Kim đất Sầm Châu để ở (xem việc năm Kỷ Sửu (1529). Sầm Châu tức là tnh Sầm Nưa ngày nay, ở phía Tây nam tỉnh Thanh Hoá.
6 Xem thêm lời bàn của Đăng Bính chép ở cuối năm Đinh Hợi (1527) và đầu năm Mậu Tý (1528).
596                                                Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XV
mà có thiên hạ, thế là thuận. Rồi đến nhà Lý thay nhà Lê, nhà Trần thay nhà Lý để làm vua cũng đu là thun cả. Thế thì bốn vua Triệu, Lê, Lý, Trần1 đu nhân lúc trong nước không người làm chủ, hoc vì các quan nài xin, hoc do vua đàn bà nhường ngôi, nhưng trong nước tôn phục, tri cho người theo mà có thiên h, đều là thun theo lẽ phải mà làm vy. Còn như họ Mạc thì không như thế.
Cứ xem mọi việc làm của Đăng Dung chẳng qua là một viên đi thn của nhà Lê, đương lúc nhà Lê vua yếu, tôi mnh [79b], nếu hắn biết noi theo các bc tôi gii, tưng hiền đời xưa, phò chúa, giúp dân như Y Doãn giúp Thái Giáp, Chu Công giúp Thành Vương thì công lớn huy hoàng ấy còn đáng ca ngợi.
Sao lại không bắt chước thế mà đi làm ngược lại? Thế thì không tránh khỏi cái tiếng bức vua nhường ngôi, cướp nưc giết vua để mưu tự lập. Ngay lấy được nước, cũng chỉ khoảng 6, 7 năm, nếu gọi là thành công, cũng chỉ như Vương Mãn thôi, rốt cuc không tránh khỏi hoạ tru di. Thực như o Tháo đi với nhà Hán, họ Hồ đối với nhà Trần, đều cùng một duc c. Bởi thế, tôi mới nói là vì theo lẽ nghịch mà lấy đưc nước, nên không đưc chép thành kỷ chính thống. May nhờ có tôi cũ, tướng xưa của nhà Lê giữ tròn tiết lớn, đồng lòng sửa sang, chung sức phò tá, để vượt mọi gian nan, đó là trời có ý đợi vua tôi ngày nay [80a] gng chí mưu toan, khôi phục ngôi cũ, cho nên mới dựng lại đưc nghiệp trung hưng, thống nhất bờ cõi, đi mới xã tc, giết bn gian hùng tàn ngược, đặt mặt trời mặt trăng vào đứng giữa trời, cho thiên hạ quy về một mi. Cho nên, ở đây phải chép khác thường như vy. Có thơ rng:

Lê tộ trùng hưng cựu vật hi, Lam Sơn phục kiến cựu lâu đài. Quân thần đo hợp tư vi mỹ, Chính trị hân quan vạn quốc khôi. (Ngôi cũ nhà Lê đã phục hồi, Lam Sơn lại thy cnh lâu đài. Vua tôi hp đo, ôi là đẹp!
Trị nước mừng xem mi chốn vui)

Trở lên, triều Lê bắt đầu từ năm Mậu Tuất [1418] đi Thái Tổ, đến năm Đinh Hợi [1527] đời Cung Hoàng, gồm 110 năm. Nếu tính gộp với họ Mạc tiếm ngôi từ năm Mậu Tý [1528] đến năm Nhâm Thìn [1532] gồm 5 năm, thì tổng cộng là 115 năm.
1 Chỉ bốn vị vua khai sáng ra bốn triều đại Triệu, Lê, Lý, Trần là Triệu Quang Phục, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn và Trần Cảnh.

Đi Việt SKý Bn KTc Biên

Quyển XVI
[1a]
KNhà Lê
Ph: Họ Mạc
(Đăng Doanh 8 năm, Phúc Hải 6 năm, Phúc Nguyên 2 năm)
Trang Tông Dụ Hoàng Đế
Tên húy là Ninh, lại húy là Huyến, ở ngôi 16 năm, thọ 34 tuổi. Vua gặp vn gian truân phải đi lánh nạn, nhờ đưc bề tôi cũ tôn lập, bên ngoài liên kết vi nưc láng giềng, bên trong dùng đưc các tưng giỏi, cho nên mọi người đều vui lòng gắng sức, nền móng trung hưng bắt đầu từ đấy.
Vua là con ca Chiêu Tông1, cháu xa đời ca Thánh Tông, mẹ là Phạm thị, tên húy là Ngọc Quỳnh, ngưi sách Cao Trĩ, huyện Thụy Nguyên2. Khi Đăng Dung cưp ngôi, tiếm hiệu, vua tránh về Thanh Hóa. Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim sai ngưi dò tìm, đón vua sang nước Ai Lao tôn lập.
Quý Tỵ, [Nguyên Hòa] năm thứ 1 [1533], (Mạc Đại Chính năm thứ 4; Minh Gia Tĩnh năm thứ 12). Mùa xuân, tháng giêng, vua lên ngôi ở Ai [1b] Lao, đt niên hiệu là Nguyên Hòa, tôn Đại tướng quân Nguyễn Kim là Thượng phụ thái sư Hưng quc công, chưởng nội ngoi sự, lấy trung nhân Đinh Công3 làm Thiếu Úy Hùng Quốc Công, còn lại, người nào cũng đưc phong thưởng để họ đồng lòng khuông phù. Lại liên kết với vua Ai Lao Xạ Đẩu, nhờ họ giúp binh khí, lương thực để mưu việc đánh lấy lại nước.
Vua sai Trịnh Duy Liêu sang nhà Minh tâu rằng vì Mc Đăng Dung tiếm lon, chiếm giữ kinh thành, ngăn trở đường đi nên bỏ lâu việc tiến cống4.
Giáp Ngọ, [Nguyên Hoà] năm thứ 2 [1534], (Mc Đại Chính năm thứ 5 Minh Gia Tĩnh năm thứ 13). Nhà Minh nghe tin Mạc Đăng Dung cướp ngôi, đt quan lại nguỵ, chiếm giữ Kinh thành, ngăn trở đường tiến cống, tự tiện làm bài Đại cáo, tiềm xưng là thượng hoàng, ti trng đã rõ, bèn sai Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm tng đốc quân vụ, Binh bộ thượng [2a] thư Mao Bá Ôn làm tham tán quân vụ, đem quân sang hỏi đánh5.

1 Tức là Lê Y, con trưởng của Cm Giang Vương Lê Sùng, cháu của Kiến Vương Lê Tân, cháu bốn đời của Lê Thánh Tông. Như vậy, Trang Tông là cháu năm đời (huyền tôn) của Lê Thánh Tông.
2 Sách Cao Trĩ: thuộc châu Ngọc Lặc, nay là huyện Ngọc Lặc, tnh Thanh Hóa.
3
Trung nhân: hoạn quan. Đinh Công là viên hoạn quan người Thanh Hóa.

4 Minh sử, Q.321, và Cương mục đều chép việc bọn Trịnh Duy Liêu sang nhà Minh vào năm Gia Tĩnh thứ 16, tức là năm Nguyên Hoà 5 (1537). Đoàn này đi thuyền buôn từ Chiêm Thành, vượt biên, sau hai năm mới tới Yên Kinh.
5 Theo Minh s, Q.321, việc này xảy ra vào các năm Gia Tĩnh thứ 16 (1537), 17 (1538) và 19 (1540).
Ất Mùi, [Nguyên Hoà] năm thứ 3 [1535], (Mạc Đại Chính năm thứ 6; Minh Gia Tĩnh năm thứ 14). Nhà Mc mở khoa thi Hi, lấy bn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi Khc Đốc, Nguyễn Thừa Hưu đỗ tiến sĩ cập đ; bn Nguyễn Di Lượng 7 người đỗ tiến sĩ xut thân; bọn Nguyễn Trùng Quang 22 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
Bính Thân, [Nguyên Hoà] năm thứ 4 [1536], (Mc Đại Chính năm thứ 7 - Minh Gia Tĩnh năm thứ 15). Vua sai Trịnh Viên sang nhà Minh trình bày việc họ Mc cướp ngôi giết vua, và vua phải xiêu giạt vào Thanh Hoa1.
Họ Mạc sai Đông quân đô đốc phủ tả đô đc Khiêm quận công Mc Đình Khoa trùng tu Quốc tử giám.
Đinh Dậu, [Nguyên Hoà] năm thứ 5 [1537]; (Mc Đại Chính năm thứ 8; Minh Gia Tĩnh năm thứ 16). Mùa xuân, tháng giêng, hMạc thăm nhà Thái học.
[2b] Mùa hạ, tháng 4, gió to, gãy cây, tốc nhà, nước biển dâng tràn, làm chết nhiều người và súc vật.
Tây An hu Lê Phi Thừa của họ Mạc khi quân cướp lấy của ci của ba ty rồi thu quân chạy vào nước Ai Lao đu hàng vua.
Họ Mc phong cho con là bọn Kinh Điển làm vương, ngoài ra đều theo thứ tự bc mà được nhn phong.
Mậu Tuất, [Nguyên Hoà] năm thứ 6 [1538], (Mc Đại Chính năm thứ 9; Minh Gia Tĩnh năm thứ 17). Mùa xuân, họ Mc mở khoa thi Hội, cho bọn Giáp Hi, Trần Toi, Hoàng Sm đỗ tiến sĩ cập đệ; bọn Phan Co 8 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Hoàng Thuyên 25 người đỗ đồng tiến sĩ xut thân.
Họ Mạc tuyển hoàng dinh.
Họ Mạc sai Nguyễn Văn Thái sang nhà Minh dâng biểu xin hàng và xin phân xử2.
Kỷ Hợi, [Nguyên Hoà] năm thứ 7 [1539], (Mạc Đi Chính năm thứ 10; Minh Gia Tĩnh năm thứ 18). Vua phong đi tưng quân Trịnh Kiểm làm Dực [3a] qun công, (người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc3), Trịnh Công Năng làm Tuyên qun công, Lại Thế Vinh4 làm Hoà quận công. Bọn Hiệp qun công, Tưng qun công, Từ qun công, Trấn qun công, Tây quận công, Dương qun công, Thuỵ qun công, Nghi quận công đu được ban ấn coi quân, sai đem quân bản bộ tiến đánh các nơi để lo lấy lại Tây Kinh, khí thế quân sĩ mnh thêm. Sau tiến đánh huyện Lôi Dương, quân Mạc phn nhiều bị thua, rồi đem quân về.
Đi hạn.
Mùa đông, tháng 10, đng đất.
Canh Tý, [Nguyên Hoà] năm thứ 8 [1540], (Mạc Đại Chính năm thứ 11; Minh Gia Tĩnh năm thứ 19). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 15, Mạc Đăng Doanh chết. Con trưng là Phúc Hải lên ngôi, lấy năm sau làm Qung Hoà năm thứ 1.
Mùa đông, tháng 11, Mc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là bn Nguyễn Như Quế, Đỗ Chế Khanh, Đng Văn Tri, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy
1 Sau chuyến đi của Trịnh Duy Liên, vua tôi nhà Lê thấy lâu không được tin gì, lại sai Trịnh Viên đi (CMCB27, 27).
2 Nguyễn Văn Thái mang tờ biểu đầu hàng sang nhà Minh. Tờ biểu đại ý nói nhà Lê không còn ai nối dõi, Đăng Dung được trao ấn chương để nối coi việc nước... Vì Trần Cung chiếm giữ Lạng Sơn, nên chưa dâng biểu và sang tiến cống được... Bọn vua tôi nhà Minh không nghe, sai Cừu Loan và Mao Bá Ôn gấp đến Quảng Tây chiêu tập binh mã tiến đánh nhà Mạc.
3 Huyện Vĩnh Phúc: nay là huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Trịnh Kiểm hồi còn nhỏ phải đi ở chăn trâu, đến nương nhờ dưới trướng Nguyễn Kim, được Kim tin cậy, phong Dực Nghĩa hầu và gả con gái lớn là Ngọc Bảo cho.
4 Li Thế Vinh: người xã Quang Lãng, huyện Tống Sơn. Nay là huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá.
599                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Nhất, Bùi [3b] Trí Vĩnh, qua Trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buc dây ở cổ1, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ của quân Minh2 quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đu hàng, nộp hết sổ sách về đt đai, quân dân và quan chức cả nưc để chờ phân xử, dâng các đng Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương3, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Qung, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Lại xin ban chính sóc, cho ấn chương, để kính cẩn coi giữ việc nước và chờ lệnh thay đổi hay quyết định khác. Lại sai bọn Văn Minh và Nguyễn Văn Thái, Hứa Tam Tỉnh mang biểu đu hàng sang Yên Kinh.
Thái sư Hưng quc công Nguyễn Kim đem quân về đánh Nghệ An, hào kiệt phần nhiều theo v, thanh thế rt lừng lẫy, đến đâu là gn xa đều hàng phục.
Tân Sửu, [Nguyên Hoà] năm thứ 9 [1541]. (Mạc Qung Hoà năm thứ 1; Minh Gia Tĩnh năm thứ 20). Họ Mạc mở khoa thi Hi. Cho bọn Nguyễn Kỳ, Phm [4a] Công Sâm, Nguyễn Thế Lc đỗ tiến sĩ cập đệ; bọn Ngô Quang 4 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Phm Nguyên 23 người đỗ đồng tiến sĩ xut thân.
Bấy giờ, Tây An hu Lê Phi Thừa có ý bt bình, thường nói ra những lời phn uất, càng ngày càng kiêu căng; ngang ngược. Thái sư Nguyễn Kim sai người bóp cổ chết. Trước kia, Phi Thừa xut thân là xá nhân, thờ Mạc Đăng Dung, được Đăng Dung khen ngợi, cho cai quản quân dân bảy huyện thuộc đo y4. Đến năm Đại Chính, Thừa quy thuận triều đình, vua vẫn cho giữ chức cũ. Đến đây lại oán hận, kiêu căng bạo ngược nên bị giết.
Tháng 8, ngày 22, Mạc Đăng Dung chết.
Tháng 10, ngày 20, bọn Mao Bá Ôn nhà Minh kính dâng bản tâu về Yên Kinh nói rằng: Mc Đăng Dung tự trói mình đầu hàng ở cửa i, xin kính theo chính sóc5, xoá bỏ tiếm hiệu, trả lại đất bn đng đã chiếm, [4b] xin ni thuc xưng thn, xin hàng năm ban lịch Đại Thng6 và bù đủ lễ vật tiến cống hàng năm, cúi mình cung kính thuận phục. Nếu như coi Đăng Dung là kẻ có tội đầu hàng, chưa kể khinh xuất trao cho chức tước, đất đai, thì cháu của y là Mạc Phúc Hi nay đang đi mệnh, nếu đưc đội ơn khoan thứ, cũng có thể cho làm các chức khác như đô hộ, tổng quản theo như lệ cũ của nhà Hán, nhà Đưng7, hàng năm quan Bố chính ty Quảng Tây ban cp lịch Đi Thống, cho y đến Trn Nam Quan kính nhận, những lễ vt tiến cng các năm trước còn thiếu, thì tra xét bắt bù đủ, từ năm sau chiếu sổ np dần. Còn như Lê Ninh tuy tự xưng là con cháu họ Lê, nhưng cứ theo các ty tra xét, thì ngọn ngành tung tích khó biết rõ ràng. Trịnh Duy Liêu trước có lén lút tới các đồng trại ở châu Thạch Lâm nước ta, sát vùng thổ quan Qung Tây, nhưng mt mũi Lê Ninh ra sao cũng không được biết, cho nên khi thì gọi là [5a] Lê Ninh, khi thì gọi là Lê Hiến, lúc thì gọi là Quang Hoà, có lúc lại bảo là họ Trịnh trá xưng. Còn Trịnh Viên thì khai rng ở đng Tất Mã Giang8 có Lê Ninh thực, nhưng lại lịch tông phái không biết đưc rõ; những điều trình bày về tui tác, nét mặt, lại khác với lời khai cũ của Trịnh Duy Liêu, đều khó dựa vào đó mà nghe được. Hãy cho Ninh ở lại Tất Mã Giang, những vùng đã lấy được đều thuộc quyền y quản thúc, có thể bàn trao chức tước, cho thực thuc về Vân Nam. Nếu không phi là con cháu nhà Lê thì thôi không bàn nữa. Còn Trịnh Duy Liêu thì cho sở thuc Qung Đông tuỳ nghi sắp xếp, cp cho ruộng đt, nhà ở, đừng để y phải bơ vơ. Xử phân như vậy, ngõ hầu mới được chu tất. Vua Minh bèn phong cho Mạc Đăng

1 Cm thước, buộc dây ở c: biểu thị sự tự trói mình và chịu nhận trừng phạt.
2 Mạc phủ do bọn Mao Bá Ôn dựng trấn ở Trấn Nam Quan để xâm lược nước ta. Số quân chúng điều động gồm 20 vạn chính binh và kỳ binh.
3 Khâm Châu chí của nhà Thanh chỉ ghi 5 động, không có động An Lương. ơng mục dẫn Qung Yên sách cho rằng động An Lương sau là phố An Lương, thuộc châu Vạn Ninh nước ta và cho là Toàn thư chép lầm.
4 Tức đạo Thanh Hoa, nay là tỉnh Thanh Hoá.
5 Theo lch của nhà Minh.
6 Lịch Đại Thng: lịch của nhà Minh.
7 Nhà Hán, nhà Đưng thôn tính nước ta, chia cắt nước ta thành châu quận của chúng. Theo lệ đời Hán, đời Đường, tức là bt ta nội thuc.
8 Cương mục, có chỗ ghi là Mã Giang, có lẽ động này nằm ở vùng thượng lưu sông Mã.
600                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Dung làm An Nam Đô thống sứ ty đô thng sứ, ban n bc và cho thế tập1. Còn đất 13 lộ2 [5b] thì cứ chiếu theo tên đt cũ, mi lộ đều đặt ty Tuyên phủ, đt các chức tuyên phủ đồng tri, phó sứ, thiêm sự mỗi chức 1 viên, đu thuc qun hạt của đô thống sứ sai khiến mà triều cống. Lễ cống lên vua và Đông cung thì theo lệ cũ.
Nhâm Dần, [Nguyên Hoà] năm thứ 10 [1542], (Mạc Qung Hoà năm thứ 2; Minh Gia Tĩnh năm thứ 21). Vua lấy Thuỵ quận công Hà Thọ Tường làm Ngự doanh đề thng ngự giá để mưu việc tiến đánh, sai Thái sư Hưng quc công Nguyễn Kim thống đốc tướng sĩ các dinh đi trước, tiến đánh các nơi Thanh Hoa, Nghệ An. Tưng lĩnh cũ và hào kiệt hai trấn này phn nhiều theo về, thế quân càng thêm mạnh (Thọ Tưng người xã Cổ Lũng, huyện Cẩm Thuỷ3).
Tháng 2, ngày mồng 8, Mc Phúc Hi phong tưc vương cho các em là bọn Kính Điển và các con.
Bấy giờ, quan quân giao chiến với tướng Mc, cm cự nhau đến vài tháng.
[6a] Tháng 3, ngày 22, Mc Phúc Hi lên Trn Nam Quan chịu khám nghiệm và nhận 1.000 bn lịch Đại Thống của nhà Minh ban cho. Lại lĩnh mt đạo sắc mệnh cũ phong Mạc Đăng Dung làm An Nam đô thống sứ ty đô thng sứ và mt quả ấn bạc.
Tháng 8, ngày mồng 3, họ Mạc sai bọn Nguyễn Điển Kính, Nguyễn Công Nghi, Lương Giản sang tạ ơn nhà Minh; bọn Nguyễn Chiếu Hun, Vũ Tuân và Tạ Định Quang sang tuế cống.
Tháng 12, ngày 15, nhà Minh phong Mạc Phúc Hi làm An Nam đô thng sứ ty đô thống sứ.
Quý Mão, [Nguyên Hoà] năm thứ 11 [1543], (Mạc Quảng Hoà năm thứ 3; Minh Gia Tĩnh năm thứ 22). Mc sai sứ sang tuế cng nhà Minh. Vua Minh ra lệnh ban cp cho sứ giả theo như lệnh cũ, nhưng bãi việc ban yến, giảm bớt cỗ bàn để tỏ ra không phải là [6b] lễ tiếp bi thn4.
Vua tiến quân ra từ thành Tây Đô, tướng Mc là Trung Hu hầu (không rõ tên) dẫn con em đến trước quân lạy chào cửa nam thành Tây Đô. Ba quân sôi nổi mừng rỡ. Bấy giờ, TháiHưng quốc công Nguyễn Kim còn ở Ai Lao chưa theo đi5. Vua sai Tuyên quận công Trịnh Công Năng mang chiếu thư về gọi. Kim bèn chỉnh đốn bộ ngũ lên đưng ngày, bái yết vua ở hành tại sông Nghĩa L6. Vua cả mừng, gia thăng Kim làm thái tể, sai làm đô tướng, tiết chế tướng sĩ các dinh, chia đường cùng tiến, bình định vùng tây nam, đánh là thng.
Tuyên quận công Trịnh Công Năng ni quân làm phản, chiếm giữ đu nguồn Qung Bình7, dựng đt đặt doanh trại. Vua sai Dực qun công Trịnh Kiểm đi đánh, giết đưc Năng.
[7a] Giáp Thìn, [Nguyên Hoà] năm thứ 12 [1544], (Mạc Qung Hoà năm thứ 4 - Minh Gia Tĩnh năm thứ 23). Mùa xuân, họ Mc mở khoa thi Hi. Cho bọn Vũ Kính 3 người đtiến sĩ xut thân, bọn Nguyễn Hữu Dục 14 người đỗ đồng tiến sĩ xut thân.
Ất Tỵ, [Nguyên Hoà] năm thứ 13 [1545], (Mạc Quảng Hoà năm thứ 5; Minh Gia Tĩnh năm thứ 24). Tháng 4, vua lấy Thiếu uý Hùng quc công Đinh Công làm thái uý, sai coi giữ ngự dinh. Vua thân hành đem các tướng đi đánh miền Sơn Nam, đến huyện Yên Mô đóng dinh.

1 Thế tp: là được truyền từ đời nọ sang đời kia.
2 13 lộ: năm 1466, Lê Thánh Tông đặt 13 đạo thừa tuyên, có lẽ là 13 lộ này.
3 Nay thuộc huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá.

4 Bi thn: là bề tôi của vua chư hầu. Không theo lễ tiếp bồi thần có nghĩa là không coi họ Mạc là vua chư hầu.
5 Năm trước đã có việc Nguyễn Kim thống suất các quân tiến đánh Thanh Hoa, năm nay lại chép Nguyễn Kim còn ở Ai Lao. Sách Cương mục (CMCB27, 40) cho là Toàn thư chép lầm.
6 Sông Nghĩa L: chưa rõ ở đâu.
7 Quảng Bình: tên huyện, nay là vùng đất phía tây bắc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá.
601                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Tháng 5, ngày 20, hàng tướng Mạc là Trung Hậu hu ngầm chứa hai lòng, mời Thái tể Nguyễn Kim đến dinh của hn, bỏ ngm thuốc độc trong quả dưa dâng lên trước mâm cỗ, Kim tin thực ăn dưa, bị trúng độc, đến khi về thấy trong người khó chịu rồi mất, Trung Hậu hu đêm y trốn đi, lại quay về [7b] với họ Mạc1. Trước kia, Trung Hu hu xut thân là hoạn quan, trải thờ Mc Đăng Dung, làm quan đến chức chưởng bộ, nghe tin vua nổi quân khôi phục bờ cõi, liền bàn mưu với họ Mạc dùng kế trá hàng, thường mun hi vua.
Việc đó không thành, mới bỏ ngầm thuốc đc để hi Thái tể Kim, Kim không để ý, bị trúng độc. Vua xuống chiếu truy tặng Kim làm Huân Tĩnh công, thuỵ là Trung Hiến, sai người rước về Bái Trang2, huyện Tống Sơn để hậu táng. Phong con trưởng của Kim là Uông làm Lãng quận công, con thứ là Hoàng làm Hạ Khê hu, sai đem quân đi đánh giặc.
Tháng 8, vua sai Dực quận công Trịnh Kiểm làm đô tướng tiết chế các dinh quân thuỷ bộ các xứ kiêm tổng ni ngoi bình chương quân quốc trng sự, Thái sư Lượng quc công. Mi binh quyền ngoài khổn, công việc trong nước, trù tính mưu lược, phong tước bổ quan xa gần đều được [8a] tuỳ mình quyết định, rồi sau mới tâu vua. Lượng quốc công càng dốc lòng trung trinh, mọi việc đu quyết đoán rõ ràng, công việc đều đâu ra đy c.
Bính Ngọ, [Nguyên Hoà] năm thứ 14 [1546], (Mạc Qung Hoà năm thứ 6; Minh Gia Tĩnh năm thứ 25). Vua lập hành điện ở sách Vn Lai3. Mi khi có đánh dẹp, đều giao cả cho Thái sư Lượng quốc công thng lĩnh, đánh đâu được đấy. Do vậy, hào kiệt các châu Hoan, Diễn, Ô, Qung4 đua nhau tới cửa đình, ai nấy đều vui lòng gắng sức, cõi đt Ái Châu5 yên dần.
Tháng 5, ngày mồng 8, Mc Phúc Hi chết. Con trưởng là Phúc Nguyên mới lập, lấy năm sau làm năm Vĩnh Định thứ 1.
Đinh Mùi, [Nguyên Hoà] năm thứ 15 [1547], (Mc Vĩnh Định năm thứ 1; Minh Gia Tĩnh năm thứ 26). Mùa xuân, họ Mc mở khoa thi Hi, cho bọn Dương [8b] Phúc Tư, Phạm Du, Nguyễn Tế đỗ tiến sĩ cập đệ, bọn Nguyễn Kính Chỉ 8 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bn Vũ Hiệu 19 người đỗ đng tiến sĩ xuất thân.
Tháp Báo Thiên bị đổ.
ng Mạc là Tứ Dương hu Phm Tử Nghi6 mưu lập người họ Mạc là Hoằng Vương Chính Trung7 làm chúa, không xong, bèn nổi lon, bức dời Chính Trung về xã Hoa Dương8, huyện Ngự Thiên. Họ Mạc sai Khiêm Vương Kính Điển9 cùng bọn Tây qun công Nguyễn Kính đem quân đi bắt, bị Tử Nghi đánh bi. Sau Tử Nghi nhiều lần đánh không được, mới ép Chính Trung ra chiếm cứ vùng Yên Qung. Dân ht Hi Dương bị nn binh lửa luôn luôn, nhiều người phi lưu vong. Tử Nghi lại chy vào đt nhà Minh, thả quân đi bt người cướp của Quảng Đông, Quảng Tây. Người Minh không kiềm chế nổi. (Tử Nghi người huyện An Dương).

1 CMCB27, 39, 40 ghi rõ tên của viên quan Trung Hậu hầu này là Dương Chấp Nhất.
2 Bái Trang: tức là Gia Miêu Ngoại trang, đời Nguyễn gọi là Quý Hương, nay ở huyện Hà Trung, tnh Thanh Hoá.
3
Sách Vạn Lai: nay là xã Vạn Lại, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá.

4 Hoan Diễn: là vùng đất các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay. Ô: là chỉ miền đất tỉnh Bình Trị Thiên ngày nay, Qung: là chỉ miền đất tnh Quảng Nam-Đà Nẵng ngày nay.
5 Ái Châu: tức là đất tỉnh Thanh Hoá ngày nay.
6 Phạm Tử Nghi: người xã Trung Hành, huyện An Dương, trấn Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. 7 Chính Trung: là con thứ của Mạc Đăng Dung.
8 Hoa Dương: tên xã, sau là của Mạc Phúc Hải. 9 Mạc Kính Điển: là em ca Mạc Phúc Hải.
602                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
[9a] Mậu Thân, [Nguyên Hoà] năm thứ 16 [1548], (Mc đổi Vĩnh Định thành Cảnh Lịch năm thứ 1; Minh Gia Tĩnh năm thứ 27). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 29, vua băng, Thái tử Huyên lên ngôi, lấy năm sau làm Thuận Bình năm thứ 1. Dâng tôn hiệu cho Đại Hành Hoàng Đế là Trang Tông.
Họ Mc phong Phạm Quỳnh làm Vinh quận công, và con là Dao làm Phú xuyên hầu. (Quỳnh người xã Thịnh Liệt1, huyện Thanh Trì).
Họ Mạc sai bọn Lê Tiên Quý sang tuế cng nhà Minh.
Trung Tông Hoàng Đế
(Tên húy là Huyên, là con trưởng của Trang Tông, ở ngôi 8 năm, thọ 22 tuổi)
Ph: Họ Mạc (Phúc Nguyễn 8 năm)
Vua uỷ nhiệm bậc trung thn mưu lược, đánh giết kẻ tiếm hiệu cưp ngôi, có thể gọi là có tài lược đế vương, song hưng thọ không lâu, đất đai của tiên vương chưa thu phục được hết, tiếc thay!
Kỷ Dậu, [Thuận Bình] năm thứ 1 [1549], (Mạc Cnh Lịch năm thứ 2; Minh Gia Tĩnh năm thứ 28). Họ Mạc lấy tướng Đông đạo (không rõ tên) làm Thiệu quc công, tướng Bắc đạo Mc Đình Khoa làm Gia quc công, tướng Tây đạo Nguyễn Kính làm [9b] thái uý Tây quốc công, Nguyễn Khải Khang làm thái uý Đoan quốc công, đều cho họ Mạc; tướng Nam đo Lê Bá Ly2 làm thái tể Phụng quc công, cùng các thn thuộc trên dưi đều được phong để mưu giữ đất đai bờ cõi.
Mc Phúc Nguyên bỏ chính điện ở thành Thăng Long, dời ra ở ngoại thành, trong cõi rối loạn.
Tháng 3, lấy Phạm Đốc làm Kinh ngô vệ chưởng vệ sự, phong Quảng quận công (Đốc người xã Thổ Sơn, huyện Vĩnh Phúc3).
Canh Tuất, [Thuận Bình] năm thứ 2 [1550], (Mạc Cnh Lịch năm thứ 3; Minh Gia Tĩnh năm thứ 29). Họ Mc mở khoa thi Hội. Cho bọn Trần Văn Bảo, Trần n, Nguyễn Minh Dương đỗ tiến sĩ cập đệ; bọn Lê Khâm 4 người đỗ tiến sĩ xut thân, bọn Nguyễn Thừa Hưu 18 người đỗ đồng tiến sĩ xut thân.
Bấy giờ Mạc Phúc Nguyên nghe lời dèm pha của cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao4, cho nên tướng Nam đo, Thái tể [10a] Phụng quc công Lê Bá Ly và con là Phổ quận công Lê Khắc Thận; văn thn là Li bộ thượng thư ngự sử đài đô ngự sử, Đông các đi học sĩ nhp thị kinh diên Thư quận công Nguyễn Thiến5 và con là Nguyễn Quyện, Nguyễn Phủ, mi người đem hơn trăm quân bản bộ đi đêm trốn vào cửa i Thanh Hoa xin hàng. Vua cho hàng. Bọn họ đến cửa khuyết lạy chào. Vua cả mừng, ban thưởng và uý lạo cho.
Từ đó, hào kiệt các nơi kéo đến hưởng ứng như mây trời qun tụ, ai cũng vui lòng.
Tân Hợi, [Thun Bình] năm thứ 3 [1551], (Mạc Cnh Lịch năm thứ 4; Minh Gia Tĩnh năm thứ 30). Họ Mc sai bn Kinh Điển đc quân đi đánh Mc Chính Trung và Phạm Tử Nghi ở Yên Qung. Đui đánh và bắt được Tử Nghi đưa về Kinh sư chém lấy đu gửi sang nước Minh. Người Minh không nhận, trả lại. Chính Trung chạy vào đất Minh rồi chết [10b] đấy. (Bản kỷ viết: Trước kia, Phạm Tử Nghi vẫn

1 Thịnh Liệt: tục gọi là làng Sét, ở phía dưới xã Bạch Mai và Hoàng Mai; thuộc Hà Nội ngày nay.
2
Lê Bá Ly: người làng Cổ Phạm, huyện Đông Sơn, tnh Thanh Hoá ngày nay.

3 Huyện Vĩnh Phúc: sau là huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá.
4 Phạm Quỳnh, Phm Dao: người làng Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, nay thuộc ngoại thành Hà Nội.
5 Nguyễn Thiến: người làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, nay thuộc tỉnh Hà Tây, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1532) đời Mạc.
603                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
định lập Hong Vương Chính Trung làm người nối ngôi họ Mc, nhưng các thân vương trong họ và đại thn của họ Mạc lại mưu lập Phúc Nguyên. Chính Trung không được lập, mi cùng với Tử Nghi nổi lon, và cướp bên nước Minh, người Minh bị nhiều tai hoạ. Đến đy, nhà Minh trách họ Mạc là phiên thn vô lễ, dung túng bọn cưp nước sang cưp bóc đi quốc, sẽ phi đem quân sang, họ Mạc rất sợ, liền ngầm sai kẻ tiểu tt đi bắt được Tử Nghi, chém đu sai người đưa sang nhà Minh. Nhưng hễ đi tới đâu là hay sinh ôn dịch ở đó, làm chết hi nhiều người và súc vt, nên người Minh phải trả lại).
Thái sư Lượng quc công sai hàng tướng của họ Mc là Lê Bá Ly cùng với bn Vũ Văn Mật1 tiến quân sát đến Kinh sư. Mạc Phúc Hi chy về Kim Thành2, để Mc Kính Điển làm đô tổng soái ở lại cầm quân chng giữ.
Nhâm Tý, [Thun Bình] năm thứ 4 [1552], (Mạc Cảnh Lịch năm thứ 5; Minh Gia Tĩnh năm thứ 31). Thái sư Trịnh Kiểm đem quân đi đánh dp miền tây nam. Tướng Tây đạo thái uý đoan quốc công của họ Mạc là Nguyễn Khải Khang đem quân về hàng, đến Yên Trường3 [11a] vua uý lạo, ban thưng, vẫn cho giữ chức tước như cũ.
Quý Sửu, [Thuận Bình] năm thứ 5 [1553], (Mc Cảnh Lịch năm thứ 6; Minh Gia Tĩnh năm thứ 32). Vua dời hành ti đến Yên Trường.
Họ Mc mở khoa thi Hội, cho bọn Nguyễn Lượng Thái, Hoàng Tuân, Trần Vĩnh Tuy đỗ tiến sĩ cp đệ; bn Nguyễn Nghĩa Lập 5 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bn Nguyễn Công Tc 12 người đỗ đng tiến sĩ xut thân.
Giáp Dần, [Thun Bình] năm thứ 6 [1554], (Họ Mạc đi niên hiệu Cảnh Lịch thành Quang Bảo năm thứ 1; Minh Gia Tĩnh năm thứ 33). Thái sư Lượng quốc công Trịnh Kiểm dời hành dinh đến Biện Thượng4. Thế quân thêm mnh, hiền sĩ bốn phương nhiều người quy phụ.
Mở chế khoa5, chn kẻ sĩ. Cho bọn Đinh Bạt Tuy 5 người đỗ đệ nhất giáp chế khoa xuất thân6; bọn Chu Quang Trứ7 8 người đỗ đệ nhị giáp đng chế khoa xuất thân.
[11b] Tháng 10, ngày mồng 1, lấy Kim ngô vệ chưởng vệ sự Qung quận công Phm Đốc làm thái bảo.
Ất Mão, [Thuận Bình] năm thứ 7 [1555], (Mc Quang Bảo năm thứ 2; Minh Gia Tĩnh năm thứ 34). Tháng 8, họ Mạc sai Khiêm Vương Mc Kính Điển đem quân vào cướp Thanh Hoá; lấy Thọ qun công (không rõ tên) tiết chế quân Nam đạo, đem hơn 100 chiếc thuyền làm tiên phong, tiến đến cửa biển Thần Phù đóng dinh.
Hôm sau, Kính Điển đem quân đến hi ở sông Đi Li8, sai Thọ qun công đc suất quân bản bộ đi trước, đóng dinh ở núi Kim Sơn9.

1 Vũ Văn Mt: là em Vũ Văn Uyên, người xã Ba Động, huyện Gia Phúc (nay là huyện Gia Lộc tỉnh Hải Hưng). Khi họ Mạc cướp ngôi nhà Lê thì Vũ Văn Uyên cát cứ vùng Tuyên Quang chống lại nhà Mạc. Văn Uyên chết, Vũ Văn Mật nối nghiệp anh, được vua Lê phong tước Gia quốc công.
2 Kim Thanh: tên huyện, thuộc tnh Hải Dương, nay là tnh Hải Hưng.
3 Yên Trường: tên xã, thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá ngày nay.
4
Biên Tng: tức làng Bồng Thượng, huyện Vĩnh Lộc, tnh Thanh Hoá.

5 Chế Khoa: theo Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn thì lệ thi cử thời Lê như sau: Những năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu là khoa thi Hương; những năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất là khoa thi Hội. Nhưng có khi nhà vua có bài chế ban xuống cho mở khoa thi đặc biệt không theo lệ trên thì gọi là chế khoa. Phép thì chế khoa cũng giống khoa thi Hội (thi kinh nga, tứ lục, thơ, phú và văn sách).
6 Đinh Bạt Tuy: người làng Bùi Khổng, huyện Hưng Nguyên, nay thuc tỉnh Nghệ An.
7 Chu Quang Trứ: người xã Nam Hoa Thượng, huyện Thanh Chương, Nghệ An.

8 Sông Đi Lại: tức sông Lèn, một nhánh của sông Mã ở Thanh Hoá.
9 Kim Sơn: có tên là núi Biện hay núi Bồng. Động Kim Sơn là một danh thắng.
604                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Thái sư Lượng quc công Trịnh Kiểm đi hi các tướng bàn rằng: Giặc cậy đông khinh ta, ta dùng kế mai phục đợi chúng, thế nào cũng bt được. Bèn sai ngưi dặn trước dân chúng hai bờ sông không được kinh đng, ai nấy cứ vững yên như cũ. Li sai [12a] trung quan là Thái uý Hùng quốc công Đình Công đc sut bn hàng tướng Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiến, Lê Khắc Thận cùng binh tướng bản bộ mai phục sn ở phía nam sông, trên từ núi Yên Định, dưới đến núi Quân Yên1. Thái sư Trịnh Kiểm đích thân đốc sut đại quân mai phục ở phía bc sông, trên từ núi Bạch Thch2, dưới đến núi Kim Sơn, lại chọn 50 con voi phục ở chân núi Kim Sơn3. Li sai Qung quận công Phạm Đc đem thuỷ quân và chỉ huy bọn hàng tướng Nguyễn Quyện đem hơn 10 chiếc thuyền chiến chiếm cứ mạn thượng lưu từ sông Hữu Chấp đến sông Kim Bôi4, đi đi lại lại làm thế dốc.
Hôm sau, gi Tỵ, thuyền giặc qua Kim Sơn, đến chợ Ông Cung5. Trong chiến thuyền, nghe tiếng đàn sáo ca hát, như vào chỗ không người. Gần trưa, nghe mt tiếng súng nổ ở núi Quân Sơn, dọc hai bờ sông [12b] liên tiếp có bảy tiếng súng đáp lại. Thái sư Trịnh Kiểm tung quân đánh lớn, voi ở hạ lưu đã qua sông. Binh thuyền của bọn Phm Đốc, Nguyễn Quyện đã thuận dòng mà xuống. Binh tượng hai bên bờ hăng hái tranh nhau tiến lên trước. Quân giặc quay ngược giáo, vứt bỏ áo giáp, chiến thuyền, nhảy xung sông trốn chy. Thọ qun công tự liệu không thể thoát được, nhy xung sông trốn, bị Triều quận công Vũ Sư Thước bắt sống. Quân Mc bị bắt rt nhiều. Trói Thọ quận công trên lưng voi đem nộp ở cửa dinh cùng với my chục viên tướng giặc lớn nhỏ đã bắt được. Quân giặc chết nhiều, xác nghẹn cả sông, nước sông đỏ lòm. Thu đưc khí giới nhiều không kể xiết. My vn quân giặc chết gần hết. Kính Điển sợ vỡ mt, thu nhặt tàn quân quay về Kinh sư. Thái sư dâng biểu báo tin thắng trận, vua sai chém hết vài chục tên tướng giặc như bọn Thọ quận công núi Đng Lộc.
Bính Thìn, [Thun Bình] năm thứ 8 [1556], (Mạc Quang Bảo năm thứ 3; Minh Gia Tĩnh năm thứ 35). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 24. Vua băng, không có con ni. Thái sư Lưng quc công Trịnh Kiểm bàn với các đại thần rằng: Nước không thể một ngày không có vua. Liền sai người đi tìm con cháu họ Lê lập lên, tìm được cháu bn đời của Lam quc công Lê Trừ là Lê Duy Bang ở hương Bố Vệ6, huyện Đông Sơn, đón về lập làm vua. Đại xá, lấy năm sau làm năm Thiên Hựu thứ 1. Dâng tôn hiệu cho Đại Hành Hoàng Đế và Vũ Hoàng Đế, miếu hiệu là Trung Tông.
Lấy Thái bo Qung qun công Phạm Đốc làm Binh bộ thượng thư chưởng bộ sự.
Họ Mạc mở khoa thi Hội. Cho bọn Phm Trn, Đỗ Uông và Nguyễn Nghiêu Tá đỗ tiến sĩ cp đệ; [13b] bn Phm Viết Mậu 4 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bn Nguyễn Nhân An 7 người đđồng tiến sĩ xut thân.
Anh Tông Tuấn Hoàng Đế
(Tên húy là Bang, ở ngôi 16 năm, thọ 42 tui)
Ph: Họ Mạc
(Phúc Nguyên 5 năm, Mậu Hợp 11 năm)
1 Yên Dịch và Quân Yên: tên hai ngọn núi thuộc huyện Yên Định, Thanh Hoá.
2
Bch Thch: tên một ngọn núi ở phía tây bắc huyện Đông Sơn, Thanh Hoá.

3 Chi tiết chn voi mai phục này không thấy có trong Bản dịch cũ.
4 Sông Hữu Chấp: ở xã Hữu Chấp; Sông Kim Bôi: ở xã Kim Bôi. Hai xã Hữu Chấp và Kim Bôi đều thuộc huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá.
5 Chợ Ông Cung: hay chợ Ông, ở làng Bồng Thượng, huyện Vĩnh Lộc, tnh Thanh Hoá.
6
Bố Vệ: tên xã, ở phía nam thị xã Thanh Hoá ngày nay.
605                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Vua là dòng dõi đế thất, nhờ huân thần tôn lập, mưu cuộc trung hưng, thực là mệnh trời trao cho vậy. Song sự nghiệp chưa xong một nửa, lòng nghi hoặc dần nảy sinh, chỉ tin lời gièm pha mà xiêu giạt ra ngoài. Thương thay!
Trưc kia, anh thứ hai của Thái Tổ là Trừ (tặng Lam quc công, nay tôn phong là Hoằng Dụ Vương). Trừ sinh ra Khang (tng Quỳ quc công, nay tôn phong là Hiển Công Vương). Khang sinh ra Thọ (nay tôn phong là Quang Nghiệp Vương), Thọ sinh Duy Thiệu (nay tôn phong là Trang Giản Vương), Duy Thiệu sinh Duy Khoáng (nay tôn phong là Hiếu Tông Nhân Hoàng Đế), Duy Khoáng lấy vợ người hương Bố Vệ, huyện Động Sơn, sinh ra vua. Bấy giờ, Trung Tông băng, không có con nối, Thái sư Lưng quốc công Trịnh Kiểm và các đi thn đón lập lên.
[14a] Đinh Tỵ, [Thiên Hựu] năm thứ 1 [1557], (Mạc Quang Bảo năm thứ 4; Minh Gia Tĩnh năm thứ 36). Họ Mc lấy Khiêm Vương Kính Điển kiêm chức Tông nhân phủ Tông nhân lệnh.
Tháng 7, họ Mạc sai Kính Điển đem quân xâm phạm Thanh Hoa, đến sông Thần Phù và vùng Tng Sơn1, Nga Sơn2, đốt phá cầu phao. Thái sư Lượng quốc công Trịnh Kiểm sai Thanh qun công3 giữ Nga Sơn, Thuỵ qun công Hà Thọ Tường giữ Tống Sơn, ai nấy đều đem tinh binh đi chống giữ, quân Mc không tiến lên được. Thái sư đích thân chỉ huy binh tượng, ngầm tiến đến chân núi Yên Mô4 thẳng tới cửa biển, gặp giặc, tung quân ra đánh, lại đánh úp phía sau, tiếng súng liên hồi, trên dưới đánh kẹp vào. Thái sư sai người huyện Hoằng Hoá là Vũ Lăng hầu lao thuyền xông vào đánh, gặp thuyền Mc Kinh Điển, Vũ Lăng hu tung người nhảy qua, vung gươm chém người cm dù đứt làm hai đoạn rớt [13b] xung sông. Kinh Điển trở tay không kịp, nhy xung sông trốn thoát. Quân Mc đại bại, bỏ thuyn chạy trốn vào núi rừng. Kính Điển chỉ thoát đưc thân, vào hang núi ẩn náu 3 ngày, đói quá, ban đêm thy cây chuối trôi qua cửa hang, liền ôm chuối trôi theo dòng để tìm đường về. Vài ngày sau, đến sông Yên Mô, gp người đánh cá xã Trà Tu5 cứu thoát. Đến khi về, Kính Điển bảo cử người y làm Phù Nghĩa hầu.
Tháng 7 nhuận, lấy Thái bảo Quảng quận công Phm Đc làm thái phó.
Tháng 8, Thái sư sai Phm Đốc đi cứu Nghệ An6. Bấy giờ họ Mạc nghe tin Thái sư thừa thắng tiến đánh, bèn trn về Kinh.
Năm này, hàng tướng Mạc là Lê Bá Ly, Nguyễn Thiến chết. Con của Thiến là bọn Nguyễn Quyện, Nguyễn Phủ [15a] lại trn về với họ Mạc. Họ Mạc phong Quyện làm n Phái hầu, Phủ làm Phù Hưng hầu, đem con gái tông tht gả cho.
Tháng 9, Thái sư Trịnh Kiểm đem 5 vn quân thuỷ bộ đánh ra miền giữa Sơn Nam. Đến sông Phụng Xí7 bc cu phao qua sông, phá tan quân Mc, bắt sống tướng Mc là Khánh quốc công trên thuyền, quân Mc tan vỡ. Thái sư Trịnh Kiểm để Khánh quốc công trên voi, sai đi theo quân để hiến kế. Sau Khánh quốc công mưu phn, việc tiết lộ, bị giết.
Quan quân đánh dẹp huyện Giao Thuỷ ở mn dưới Sơn Nam. Thái Trịnh Kiểm tự mình chỉ huy bộ binh, sai bọn Phm Đốc chỉ huy thuỷ quân, lấy Vũ Lăng hu làm Tiền Thuỷ đi8, tung quân đánh lớn.

1 Tống Sơn: nay là huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá.
2
Nga Sơn: tên huyện, nay thuộc tỉnh Thanh Hoá.

3 Thanh quận công: tên quan tước, chưa rõ họ tên thực.
4 Yên Mô: tên huyện, thuộc tnh Ninh Bình.

5 TTu: tên xã, thuộc huyện Yên Mô, tnh Ninh Bình.
6 Khi Kính Điển vào đánh Thanh Hoá thì Mạc Phúc Nguyên sai bọn Phạm Quỳnh, Phạm Dao vào đánh Nghệ An. Trịnh Kiểm phá tan quân của Mạc Kính Điển, tước lấy chiến thuyền, giả làm quân Mạc kéo vào đánh quân Phạm Quỳnh, Phạm Dao ở Nghệ An. Bọn Quỳnh, Dao không đề phòng, bị đại bi.
7 Sông Phụng Xí: có lẽ là sông Phượng Tường ở huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định cũ, nay thuộc huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà.
8 Tức Phạm Đức Kỳ, người xã Tào Xuyên, huyện Hoằng Hoá, tnh Thanh Hoá.
606                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Họ Mạc sai Nguyn Quyện chống giữ sông Giao Thuỷ. Quyện và Vũ Lăng hu đánh nhau to. Vũ Lăng hầu [15b] rướn mình nhảy sang mui thuyền của Quyện trước. Quyện cầm gươm chém, Vũ Lăng hầu nhảy xuống sông lặn đi. Quyện vi nhảy sang thuyền của Vũ Lăng hầu, chém đưc đu của người cm dù rồi hô lớn: "Đầu Vũ Lăng hu đây, lũ chúng mày địch sao ni ta". Các quân nghe nói thế, không kịp ngoảnh lại nhìn, nhảy cả xuống sông. Toàn quân tan vỡ, bỏ thuyền nhảy lên bờ tháo chy. Quân Mạc thừa thắng đuổi đánh. Nhân dân các huyện đều hưởng ứng theo. Thái sư kíp bàn rút quân. Họ Mc sai tướng đem quân chặn lối về, quân sĩ phần lớn bị hi, chiến tướng bị giết đến vài chục viên, thuyền bè, khí giới phải vứt bỏ hết, tt chy thoát được còn độ mt nửa.
Tháng 10, Thái sư đem quân về Thanh Hoa, sai ác tướng vỗ nuôi quân lính, chế to chiến khí, sai tuyển tráng đinh biên chế vào quân ngũ cho đủ số quân để lại mưu đánh lần sau.
[16a] Mưa to kéo dài hàng tháng không tạnh. Ở Thanh Hoa, Nghệ An lúa đồng phần lớn bị ngập nước, mùa màng bị mt, do vy vua xuống chiếu đi năm sau thành năm Chính Trị1 thứ nhất.
Mậu Ngọ, [Chính Trị] năm thứ 1 [1558], (Mc Quang Bảo năm thứ 5; Minh Gia Tĩnh năm thứ 37). Thái sư thân đốc đại quân lại ra miền giữa trn Sơn Nam, lừa đánh lúc giặc bt ngờ, bắt sống tưng Mc là Anh Nhuệ hu đưa về hành tại Yên Trường, sai đem chém.
Năm này, lập trường thi Hương ở xã Đa Lộc, huyn Yên Định.
Tháng 8, ngày Mu Ngọ 14, Thái phó Quảng qun công Phm Đc chết2, thọ 46 tui. Được truy tặng Đặc tiến khai phủ thái uý Tĩnh quốc công, thuỵ là Trung Nghị.
Tháng 9, Thái sư Trịnh Kiểm thân đốc đại binh lại ra miền trên trấn Sơn Nam chiếm đất rồi [16b] trở về, để hàng tưng Nguyễn Khi Khang ở lại trấn thủ để chiêu tp dân chúng. Sau họ Mc dùng mưu sai người địa phương trá hàng để dụ. Khải Khang lại phản bội, quay về với họ Mc. Họ Mạc dùng xe xé xác Khang.
Tháng 10, Thái sư Trịnh Kiểm vào chu, dâng biểu tâi xin sai con thứ của Chiêu Huân Tĩnh công3 là Đoan qun công Nguyễn Hoàng đem quân vào trấn thủ xứ Thuận Hoá để phòng giặc phía đông4 cùng với Trn qun công (không rõ tên) ở Quảng Nam cứu viện cho nhau5. Mọi việc của xứ này, không cứ lớn hay nhỏ,các ngch thuế đều giao cả cho, hàng năm đến kỳ hạn thì thu nộp.
Kỷ Mùi, [Chính Trị] năm thứ 2 [1559], (Mc Quang Bo năm thứ 6; Minh Gia Tĩnh năm thứ 38). Mùa xuân, họ Mạc mở khoa thi Hi. Cho Đặng Thì Thố đỗ tiến sĩ cp đệ; bn Nguyễn Đạt Thiệu 4 người đỗ tiến sĩ xut thân; bọn Nguyễn Thm 14 người đỗ đồng tiến sĩ xut thân.
[17a] Bấy giờ quân Mc bị thua luôn, Phúc Nguyên hoang mang lo sợ, bỏ thành Thăng Long dời ra ngoài cửa Nam.
Tháng 3, TháiTrịnh Kiểm sai Hộ bộ đạc chi Văn Toàn tử Lê Trọng Nguyên đi khám đo rung đt công và tư ở Thanh Hoa để định ngạch thuế.
Tháng 8, ở Thanh Hoa, Nghệ An, nước lũ tràn ngập, đê điều, đưng sá bị vỡ lỡ, trôi mt vài trăm nhà. Trong thành Tây Đô do vậy bị ngập, kho tàng phần nhiều ngp nước, nhân dân đói kém.

1 Chính Trị: có nghĩa là sửa sang việc trị nước.
2 Phạm Đc: là con nuôi của Trịnh Kiểm, có tài dùng binh.
3 Tức Nguyễn Kim.

4 Trịnh Kiểm tuy đã lấy được đất Thuận Hoá, nhưng nhiều người ở đó vẫn theo họ Mạc, hoặc vưt biển đi theo họ Mạc, hoặc đưa quân Mạc đến phá phía sau của quân Lê - Trịnh.
5 Sau khi Nguyễn Kim chết, binh quyền về tay Trịnh Kiểm. Hai người con trai của Nguyễn Kim thì một người là Lãng quận công tả tướng Nguyễn Uông đã bị Trịnh Kiểm mưu sát. Đoan quận công Nguyễn Hoàng lo cho số phận của mình, nhờ chị là Trưởng công chúa Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn thủ Thuận Hoá. Trịnh Kiểm cũng muốn trừ bỏ mối lo bên cạnh mình, nên đồng ý cho đi. Nguyễn Hoàng đem quân thủ hạ của mình vào Thuận Hoá, đóng dinh ở gò Phù Sa, xã Ái Tử, trên sông Ái Tử.
607                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Tháng 9, Thái sư bảo cử viên tướng cùng họ là Phong qun công Trịnh Quang1 trông coi ngự bình, Phù quận công Lê Chủng làm tng trn đạo Thanh Hoa, trn gibinh dân, bọn Triều qun công Vũ Sư Thước, An qun công Lại Thế Khanh2 cùng đem tinh binh trấn gi cửa biển để phòng chng giặc. Thái sư chỉ huy hơn 6 vn đại quân, nói phao là 12 vạn, đích thân đi đánh [17b] miền bắc để mưu việc khôi phục. Đi quân từ Thiên Quang3 ra miền thượng lộ Sơn Tây4. Quân đi đến đâu, không my may xâm phm của dân, dân chúng đều thun lòng hàng phục, yên n như xưa, mọi người tranh nhau đem rượu thịt lúa gạo cấp cho quân. Khi đến Tuyên Quang, Hưng Hoá, tướng Tây đo là Định quận công5 đem quân đến hội. Li bàn tiến quân, vượt sông6 đánh chiếm các xứ Thái Nguyên, Lạng Sơn, Kinh Bắc. Viên thổ tướng Gia quận công7 cũng quy thun triều đình, nguyện xin cấp quân đánh giặc. Lại sai Định quận công trấn gi An Tây và Đi Đồng8 để củng cố cõi phiên trấn và mở đường từ Thiên Quang ni liền với Hưng Hoá, Tuyên Quang, thông đến Kinh Bắc để vận ti lương thực cung cp cho quân.
Tháng 10, Thái sư Trịnh Kiểm thng lĩnh binh tướng đi đánh dẹp các xứ Kinh Bắc, đóng dinh ở [18a] phủ Thun An9, cầm cự với quân Mạc, sau li dời đến đóng núi Tiên Du10.
Tháng 11, Thái sư Trịnh Kiểm chia quân đi đánh các phủ Khoái Châu, Hồng Châu11 các huyện Siêu Loại, Văn Giang12 quân đi đến đâu, giặc đều vỡ chy.
Tháng 12, Thái sư Trịnh Kiểm lại chia quân tiến đánh các phủ Khoái Châu, Hồng Châu, Nam Sách13 quân Mạc nghe tin đều bỏ chy.
Canh Thân, [Chính Trị] năm thứ 3 [1560], (Mc Quang Bo năm thứ 7; Minh Gia Tĩnh năm thứ 39). Tháng giêng, TháiTrịnh Kiểm sai các tướng đem quân đi đánh phá các phủ Hng Châu, Khoái Châu, Tiên Hưng14, đánh đâu được đy.
Năm này được mùa lớn. Hạ lệnh cho dân địa phương đã quy thuận ở các huyện thuộc trn Kinh Bắc np lúa để cung cấp cho quân lính.

1 Trịnh Quang: người xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc (sau là huyện Vĩnh Lộc, tnh Thanh Hoá).
2 Li Thế Khanh: người xã Quang Lăng, huyện Tống Sơn (sau là huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá).
3
Thiên Quang: nay là huyện Nho Quan, tnh Ninh Bình.

4 Trịnh Kiểm, trong chiến dịch này, dùng viên tướng Hoàng Đình Ái, người xã Vân Lũng, huyện Thạch Thành (Thanh Hoá) làm tiên phong.
5 Định quận công: tên thực là Đặng Định.
6 Tức vượt sông Hồng.

7 Tức Lê Duy Mật, một viên tướng cát cứ vùng Tuyên Quang khi ấy.
8 Đng Định: Trước theo Nguyễn Kim sang Ai Lao, sau khi Trang Tông trung hưng, được sai đi trấn thủ 10 châu của phủ An Tây, trấn Hưng Hoá. Còn Đại Đồng vốn do anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật chiếm giữ từ trước. Vì thế, CMCB 28, 13 chép là: Lại sai Vũ Văn Mật trấn giữ Đại Đồng, Đặng Định trấn giữ An Tây, thì đúng hơn.
9 Phủ Thun An: nay thuc tnh Bắc Ninh. Phủ lỵ phủ Thuận An ở khoảng Dâu Keo.
10
Núi Tiên Du: ở huyện Tiên Du cũ, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

11 Phủ Khoái Châu: gồm các huyện Đồng Yên (sau là huyện Khoái Châu), Kim Động, Tiên Lữ, Thiên Thi (sau là huyện Ân Thi), Phù Dung (sau là Phù Cừ), tnh Hưng Yên cũ, nay thuộc tỉnh Hải Hưng. Phủ Hng Châu: gồm các huyện Đưng Hào (sau là Mỹ Hào), Đường Yên (sau là Bình Giang), Cẩm Giàng, Thanh Miện, Tứ Kỳ, Vĩnh Lại (sau là Ninh Giang), đều thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
12 Huyện Siêu Loi: nay thuộc tnh Bắc Ninh. Huyn Văn Giang: sau sát nhập vào huyện Văn Lâm, nay thuộc tỉnh Hưng Yên.
13 Phủ Nam Sách: gồm các huyện Thanh Lâm (sau là Nam Sách), Chí Linh, Thanh Hà thuộc tỉnh Hải Dương và huyện Tiên Minh (nay là huyện Tiên Lãng, Hải Phòng).
14 Phủ Tiên Hưng: gồm phần đất của các huyện Hưng Hà, Đông Hưng, tỉnh Thái Bình ngày nay.
608                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Tháng 2, Mạc Phúc Nguyên sai tướng đem quân giữ thành Thăng Long, bên ngoài đóng đn một dải từ dọc [18b] sông về phía tây, trên từ Bạch Hạc, dưới đến Nam Xang1, dinh trại liền nhau, thuyền ghe san sát, ban ngày thì phất cờ dóng trng báo nhau, ban đêm thì đt lửa làm hiệu cho nhau để chng giữ với quan quân. Thái sư Trịnh Kiểm bàn chia quân cho các tướng đi đánh các huyện Đông Triều, Giáp Sơn2, Chí Linh, An Dương ở miền đông, đều lấy đưc c. Họ Mc bèn dời ra ở huyện Thanh Đàm.
Tháng 3, Thái sư Trịnh Kiểm sai bọn Vinh qun công Hoàng Đình Ái đem quân trn giữ Lạng Sơn. Vị qun công Lê Khắc Thn trn giữ Thái Nguyên, Gia quận công3 trấn giữ Tuyên Quang. Quân đóng liền nhau để cứu viện cho nhau, ngày đêm tiến công các phủ huyện Phú Bình, Văn Lan4. Li sai Định qun công trn gi Hưng Hoá, chiêu tp vỗ yên cư dân mười châu An Tây, tư cp binh lương. Từ Thiên Quang đến Kinh Bắc đường liền không dứt.
[19a] Tháng 4, TháiTrịnh Kiểm đóng quân phía nam núi Lãm Sơn5. Bấy giờ, quan quân cầm cự nhau với tướng Mạc liền năm không dứt. Thái sư Trịnh Kiểm lại chia quân đi đánh phá các vùng Thanh Miện, Gia Phúc6, Hồng Châu, Khoái Châu. Các huyện Hi Dương do vy mà chn đng.
Tân Dậu, [Chính Trị] năm thứ 4 [1561], (Mc Quang Bảo năm thứ 8; Minh Gia Tĩnh năm thứ 40). Tháng 3, họ Mạc sai tướng đem quân đến Kinh Bắc chống nhau với Thái sư Trịnh Kiểm; rồi ngm sai Mc Kính Điển đem quân vào đánh cướp Thanh Hoa, đến tận các cửa biển. Bấy giờ, các tướng trấn giữ là Triều qun công Vũ Sư Thước và An qun công Lại Thế Khanh đều bỏ dinh trại rút về; Phù qun công Lê Chủng thì quân vỡ, tháo chạy, đem quân chạy vào sách Vạn Lại, cửa Yên Trường. Gia thuộc của Thái sư và vợ con của các tướng chạy vào sách Thuỷ Đả7 để lánh nạn. Thế giặc hung hăng, dân chúng phần nhiều phi lưu tán.
[19b] Tháng 9, quân Mạc đánh vào cửa Yên Trường, đến sách Vạn Lại, sp lấy đưc kho công. Bọn Vũ Sư Thước, Lại Thế Khanh hợp sức cố đánh, tung quân mai phục đánh thng liền my trn, chém được hơn trăm thủ cp giặc. Quân Mc tan vỡ tháo chạy. Quan quân thừa thng đui theo. Mc Kính Điển phải rút quân về Kinh. Thái sư Trịnh Kiểm liền đem quân về Thanh Hoa, lạy chào vua hành ti Yên Trường, cáo thắng trận xong, đóng quân ở Cao Mt, phía nam thành Tây Đô, thưởng chiến công đánh giặc.
Phù qun công Lê Chủng chết.
Tháng 12, Mạc Phúc Nguyên chết, con là Mậu Hợp lên ngôi, đổi niên hiệu là Thuần Phúc.
Nhâm Tuất, [Chính Trị] năm thứ 5 [1562], (Mạc Thun Phúc năm thứ 1; Minh Gia Tĩnh năm thứ 41). Tháng giêng, Mạc Mậu Hp tui còn nhỏ lên nối ngôi, lấy Ứng Vương Mc Đôn Nhượng làm nhp nội phụ chính ẵm Mậu Hp ra coi chu, tôn ông chú là [20a] Khiêm Vương Kính Điển là Khiêm Đại Vương, Hoa quận công (không rõ tên) là chưởng Triều Đông vệ, Phò mã đô uý Ngạn quận công Mc Ngọc Liễn làm chưởng Phù Tây vệ, Thch qun công Nguyễn Quyện là chưởng Phù Nam vệ, Phò mã tông chính thái bảo Ninh quận công (không rõ tên) là chưởng An Bắc vệ. Ngoài ra, từng người đều được phong chức tước để hiệp lực phò tá nhà Mạc.

1 Nam Xang: sau là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, nay thuc tỉnh Nam Hà.
2
Giáp Sơn: sau là huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.

3 Tức Vũ Văn Mật.
4 Phủ Phú Bình: gồm phần lớn tỉnh Thái Nguyên cũ (nay thuộc tỉnh Bắc Thái) và huyện Bình Xuyên, tnh Vĩnh Phú bây giờ. Huyện Văn Lan: tương đương với các huyện Bằng Mạc và Điềm He, tỉnh Lạng Sơn ngày nay.
5 Núi Lãm Sơn: ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tnh Bắc Ninh.
6 Gia Phúc: tên huyện, sau là huyện Gia Lộc, tnh Hải Dương cũ, nay là tỉnh Hải Hưng.

7 Sách Thuỷ Đả: sách ở miền thượng du Thanh Hoá, có lẽ ở khoảng huyện Ngọc Lặc ngày nay.
609                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Họ Mạc mở khoa thi Hi. Cho bọn Phạm Duy Quyết, Trương Lỗ, Ngô Khiêm đỗ tiến sĩ cp đệ; bọn Vũ Văn Thiện 5 người đỗ tiến sĩ xut thân; bọn Nguyễn Vĩnh Miện 10 người đđồng tiến sĩ xuất thân.
Tháng 2, vua sai Lộc quận công đem quân đánh dẹp mười châu1, sau Nhân Khê hầu cùng đi để chiêu tp, phủ dụ dân chúng.
[20b] Tháng 8, vua lập trường thi Hương ở cửa nam thành Tây Đô.
Tháng 9, Thái sư thân hành đốc suất đi quân đi đánh dẹp lộ Sơn Nam2, sai thế tử3 cùng đi. Quân đến vùng Thanh Trì, Thượng Phúc, sai lập đi dinh ở huyện Sơn Minh4, hạ lệnh thu thóc lúa chứa để làm kế lâu dài.
Tháng nay, Hùng quc công Đinh Công chết, cho hậu táng. Công là người Quảng Bình5. Tháng 10, Mạc Mậu Hp ngờ Thái bo Văn quốc công Phm Dao có lòng khác, sai giết.
Tháng 11, thái sư rút quân về Thanh Hoa, sai Nghĩa qun công Đặng Huấn gi dinh. Huấn làm phản về với họ Mạc. (Đặng Hun người làng Lương Xá, huyện Chương Đức6).
Giáp Tý, [Chính Trị] năm thứ 7 [1564], (Mạc Thuần Phúc năm thứ 3; Minh Gia Tĩnh năm thứ 43). Bấy giờ, con trưởng của Mạc Kính Điển là Đoan Hùng Vương Kính Chỉ [21a] ngầm tư thông vi vợ lẽ của Kính Điển. Việc bị phát giác, Kính Chỉ phải giáng làm thứ nhân. Ly con thứ của Kính Phu làm Đường An Vương và trao cho binh quyền. Đến khi Kính Điển chết, họ Mc lại lấy Kính Chỉ làm Hùng Lễ công nhưng không trao binh quyền.
Bấy giờ Sạ Đẩu nước Ai Lao sai bề tôi sang cng phm vt địa phương và 4 con voi đực. Vua sai Thái sư đem con gái nuôi gả cho Sạ Đẩu để kết hoà hảo với nước láng giềng.
Tháng 9, Thái sư đốc sut đại quân đi đánh dẹp miền giữa lộ Sơn Nam, đánh phá các huyện ở phủ Trường Yên7. Khi đến cửa Chu Tước đóng quân thì Nghĩa qun công Đặng Huấn lại đem quân bản bộ đến cửa dinh quân xin chịu ti. Thái sư Trịnh Kiểm tha ti, cho gi tước cũ, lại sai Huấn ra miền Hoài An, Sơn Minh8 để mưu việc tiến đánh.
[21b] Tháng 10, Thái sư Trịnh Kiểm sai Xá nhân ty Hoa Dương hầu đc thúc dân chúng đã đầu hàng ở các phủ Trường Yên, Thiên Quan9 sửa đắp đê điều, mở rộng đường xá, từ Phố Cát10 thng đến Bình Lương11, thông đến Hoài An, Sơn Minh để vận chuyển lương thực, đi lại thông sut. Từ đấy, lộ Sơn

1 i châu: tức là 10 châu của phủ An Tây, miền thượng du sông Đà. Theo CMCB 28, 16 thì 10 châu ấy là: Chiêu Tân, Qunh Nhai, Lai Châu, Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phi, Lê Tuyền, Khiêm Châu, Tuy Phụ, Luân Châu.
2 Lộ Sơn Nam: là một vùng rộng gồm các tỉnh Nam Hà, Ninh Bình và tỉnh Thái Bình ngày nay.
3
Thế tử: chỉ con trưởng của Trịnh Kiểm, tức Trịnh Cối.

4 Tng Phúc: tên huyện, nay là huyện Thường Tín. Sơn Minh: tên huyện, nay là huyện Ứng Hoà, tnh Hà Tây.
5
Quảng Bình: tên huyện, nay là vùng tây bắc huyện Thạch Thành, Thanh Hoá.

6 Chương Đức: tên huyện, sau là huyện Chương Mỹ, nay thuộc tỉnh Hà Tây.
7 Phủ Trường Yên: gồm các huyện Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang (nay là Yên Khánh), thuộc tỉnh Ninh Bình. Phủ lỵ Trường Yên ở thị xã Ninh Bình ngày nay.
8 Hoài An: tên huyện gồm vùng đất phía nam huyện ng Hoà và một phần huyện Mỹ Đc ngày sau. Sơn Minh: tên huyện, gồm phần lớn huyện Ứng Hoà ngày sau.
9 Phủ Thiện Quang: gồm các huyện Phụng Hoá (sau là huyện Nho Quan), Yên Hoà (nay là vùng Xích Thổ) của tỉnh Ninh Bình, huyện Lạc Thổ, sau là huyện Lạc Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
10 Phố Cát: thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá.
11 Bình Lương: tên xã thuộc huyện Lạc Thuỷ trên sông Bôi, gần Châu Sơn, tỉnh Hoà Bình ngày nay.
610                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Nam, từ sông Cái về phía tây, đất đai và nhân dân các huyện đu thuc về triều đình, quân thanh lừng lẫy, đánh đâu được đy.
Tháng 12, Thái sư đem quân về Thanh Hoa.
Ất Sửu, [Chính Trị] năm thứ 8 [1565], (Mạc Thun Phúc năm thứ 4; Minh Gia Tĩnh năm thứ 44). Đt chế khoa chọn kẻ sĩ. Cho bọn Lê Khiêm 4 người đỗ đệ nht giáp chế khoa xuất thân; bọn Lê Nghĩa Trch 6 người đỗ đệ nhị giáp đng chế khoa xuất thân.
[22a] Họ Mc mở khoa thi Hi. Cho Phạm Quang Tiến đỗ tiến sĩ cp đệ, bọn Phạm Hoành Tài 3 người đỗ tiến sĩ xut thân; bọn Li Mẫn 12 người đỗ đồng tiến sĩ xut thân.
Tháng 4, thái sư đốc quân đánh ra miền giữa lộ Sơn Nam, Thế tử Trịnh Cối, Trịnh Tùng cùng đi theo. Quân đến phủ Trưng Yên, đánh phá các huyện Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang.
Tháng 9, Thái sư mưu chia quân sai bọn Vũ Sư Thước, Li Thế Khanh trấn giữ các cửa biển để phòng sự bất ngờ. Lại sai cháu gọi bằng cu là Văn Uyên hu giữ vững doanh trại, cùng trấn giữ cư dân với bọn Sư Thước, tự mình đc sut đi quân đánh dẹp các huyện ở Sơn Nam. Quân đi ti đâu, đều lấy được đấy. Mạc Mậu Hp thấy quan quân đánh gấp quá, hỏi mưu kế đánh lui. Mc Kính Điển trả lời: Quân họ tinh nhuệ, khó [22b] tranh với h, sợ địch không nổi. Trịnh Kiểm thân đốc đi quân đến đây đánh dẹp lô Sơn Nam, chưa dễ đã qua được sông. Thanh Hoa là đất căn bn của họ, nay đã suy yếu, dẫu có để quân ở lại chia gi đt y, chng qua cũng chỉ là mt hai tướng mà thôi. Thần xin sai vài viên đại tướng đem quân đi giao chiến với họ để kìm gi thế quân của họ, ri chia mấy vn quân cho thần ngày đêm thng tiến. Tới nơi, sẽ tung kỳ binh ra để bắt tướng họ. Đó là phép tất thng, là kế bỏ chỗ chc, đánh chổ hở, bt ngờ đánh vào chỗ giặc không phòng bị. Đó là ưc nguyện của thn. Mu Hợp nghe theo.
Tháng 11, Kính Điển tiến quân đánh Thanh Hoa, vượt biển, vào cửa Linh Trường1, đánh phá các huyện Thuần Hựu2, Hoằng Hoá, lấn cưp cư dân. Bọn Sư Tc sai ngưi cáo cp với Thái sư. Thái sư bèn sai [23a] Lc qun công đem quân về cứu Thanh Hoa. Vtới hành dinh, cũng bàn mưu với bn Sư Thước, Thế Khanh hợp quân tiến đánh, giao chiến với quân Mc Du Trường3. Quân Mạc phục sẵn ở chỗ hiểm yếu, cho kỳ binh ra khiêu chiến, ri giả cách thua chy. Bọn Sư Thước đem binh tưng đuổi theo, dấn sâu vào đất hiểm. Kính Điển liền tung phục binh ra, bốn mặt cùng nổi dậy, đánh kẹp lại vây thành my lớp. Bọn Sư Thước, Thế Khanh tự liệu quân ít không địch nổi nhiều, liền đt phá lớp vòng vây, cố sức đánh thoát chạy vào rừng núi. Lộc qun công đánh mt mình bị quân Mc đâm chết trên lưng voi. Quan quân chết đến hàng nghìn. Tướng Mạc định mưu tiến đánh, nhưng nghe tin Thái sư đã rút quân về đến Thạch Thành, Kính Điển bèn đem quân về.
Tháng 12, truy phong Lc qun công làm Nghiêm quốc công, vì giữ trọn tiết với việc vua.
[23b] Bính Dần, [Chính Trị] năm thứ 9 [1566], (Mạc Thuần Phúc năm thứ 5; Minh Gia Tĩnh năm thứ 45). Mùa xuân, tháng giêng, vua Minh băng, Thái tử Cứ lên ngôi, tức là Văn Tông, đổi niên hiệu là Long Khánh.
Họ Mạc đi niên hiệu là Sùng Khang năm thứ 1, dời ra ở quán Bồ Đề.
Ngày 25, họ Mc sai bọn Lại bộ thượng thư kiêm Đông các đi học sĩ Kế Khê bá Giáp Hi và Đông các hiệu thư Phm Duy Quyết lên đu địa giới Lng Sơn đón tiếp sứ thần Lê Quang Bí về nước. Quang Bí phụng mệnh đi sứ năm Gia Tĩnh thứ 27, bị nhà Minh giữ lại 18 năm, đến nay trở về.
[24a] Đinh Mão, [Chính Trị] năm thứ 10 [1567]. (Mạc Sùng Khang năm thứ 2; Minh Long Khánh năm thứ 1). Bấy giờ, Thái sư đang m, ngồi kiệu đi đánh dẹp vùng tây nam, nhiều lần thắng trn, quân sĩ càng thêm tinh nhuệ. Quân Mạc thường đánh không đưc, mi thu quân không ra nữa.

1 Cửa biển Linh Trường: nay ở cửa Lạch Trường, thuộc huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
2
Thuần Hựu: tên huyện, nay là huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá.

3 Du Trường: tên xã, thuộc huyện Hậu Lộc, Thanh Hoá.
611                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Lấy Lại bộ thưng thư kiêm Ngự sử đài đô ngự sử Tơng Quc Hoa làm Thiếu phó Văn Khê Hu.
Mậu Thìn, [Chính Trị] năm thứ 11 [1568], (Mc Sùng Khang năm thứ 3, Minh Long Khánh năm thứ 2). Mùa xuân, họ Mc mở khoa thi Hi. Cho Vũ Hữu Chính đỗ tiến sĩ cập đ; bọn Đỗ An 4 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Giáp Phong 12 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
Bấy giờ bọn Thanh hình hiến sát sứ Hoàng Chấn và Hiến sát phó sứ Nguyễn Hà ở Qung Nam [24b] dâng biểu tạ ơn nói: "Kính vâng thánh dụ ban khen vì đã dốc lòng trung thành, vỗ yên biên giới. Nay bn thn thiết nghĩ mình là thư sinh, dựa vào uy đức của triều đình mới có thể làm nên việc, được ban ân huệ e không xứng đáng, dám xin trình bày rườm rà lên trên".
Tháng 3, viên thổ quan Qung Nam là Trấn quận công1 chết. Thái sư Trịnh Kiểm lấy người Nghệ An là Nguyên qun công Nguyễn Bá Quýnh2 làm tng dinh, giữ đất ấy.
Mùa h, tháng 4, Thái sư đương m, cố gượng ra trận, đánh phá các huyện Yên Mô, Yên Khang, Phụng Hoá, Gia Viễn, hạ lệnh thu thóc lúa rồi về.
Kỷ Tỵ, [Chính Trị] năm thứ 12 [1569], (Mc Sùng Khang năm thứ 4; Minh Long Khánh năm thứ 3). Tháng 2, vua gia phong Thái sư Lương quc công Trịnh Kiểm làm Thượng tưng Thái quc công, tôn làm thượng phụ3.
[25a] a hạ, tháng 4, em vua là Lê Duy Hàn ngầm có chí khác, lẻn vào trong cung lấy trộmn báu, bị bắt, lại đưc tha. Sau Hàn lại phm pháp giết người, sai giao xuống nghị ti. Vua nói với Thưng tướng rằng: "Kẻ ít tui này may nhờ thượng phụ và các quan văn võ cùng tôn làm quân trưởng, vẫn muốn hữu ái từ người rut thịt đến nhà, đến nước, cho đến cả thiên hạ, cùng hưởng an toàn. Nay Duy Hàn với ta, cùng sinh một bọc, cha mẹ đều mất, dy bảo không nghe, vẫn thường vụng trộm làm trò nhơ bn, nào ngờ bẩm tính ngoan ngu, lại còn phạm pháp, vô cớ giết người, đáng phi giam lại". Đến ngày 25 tháng 7, bọn Thiếu phó Văn Khê hầu Lương Quốc Hoa vâng thánh chỉ, bm xin ý kiến của Thượng tướng, dựa theo lut pháp xử tội, thích vào mặt 6 chữ, phế làm thứ nhân, giao cho Hình bộ tuân hành.
[25b] Mùa thu, tháng 9, trấn thủ Thuận Hoá là Đoan qun công Nguyễn Hoàng vào chu, lạy chào hành tại; lại đến phủ thượng tướng4 lạy mừng, giãi bày tình cảm anh em5, rt thương yêu quý mến nhau. Bấy giờ có viên phó tướng trung cơ là Bút Xuyên hầu thy thượng tướng bị m, ngầm chứa mưu gian, việc bị phát gc, bỏ trn, nhưng bị đuổi theo bt về. Thượng tướng định tha tội, Hoàng cố can, mới giết.
Trưc kia, Chiêu Huân Tĩnh công Nguyễn Kim biết Tng tướng tài lược hơn người, yêu quý như con, đem con gái thứ là Ngọc Bảo gả cho. Ngọc Bảo là chị ruột của Hoàng. Đến khi Kim chết, vua trao cho Thượng tướng trông coi việc nước, nên sai Hoàng làm trn thủ Thuận Hoá, thu nộp tô thuế để chi dùng vào việc nước. Đến đây vào chầu. Ngc Bo sinh con là Trịnh Tùng, tài đức hơn người, anh hùng nhất đời, có thể nối đưc chí cha, giúp nên nghiệp đế. Công trung hưng của triều Lê [26a] thực dựng nền từ đy.
Mùa đông, tháng 10, ngày Giáp Tý, ban đêm động đất, núi lở, cây cỏ chết k. Thượng tướng tự biết mình bệnh nặng, liền dâng biểu xin thôi giữ binh quyền, lời lẽ rất khn thiết. Vua nói: "Trm hãy tm theo lời xin. Đặc cách sai con trưởng của Thượng tướng là Tuấn Đức hầu Trịnh Ci đốc lĩnh các dinh

1 Tên là Bùi Tá Hán.
2 Nguyễn Bá Quýnh: người xã Thượng Xá, huyện Chân Lộc (sau là Nghi Lộc), tỉnh Nghệ An.
3 Thượng phụ: Thượng phụ là Lã Thượng, làm tướng cho Chu Vũ Vương lấy được thiên hạ, được Vũ Vương tôn làm thầy. Tôn làm thượng phụ có nghĩa là tôn lên làm bậc thầy.
4 Phủ thưng tưng: phủ đệ của Trịnh Kiểm.
5 Trịnh Kiểm lấy chị ruột của Nguyễn Hoàng.
 
612                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
quân thuỷ bộ, con thứ là Phú Lương hu Trịnh Tùng cùng bọn tướng tá đều phi theo mà đánh gic để yên thiên h, cho thoả lòng mong đợi của trm".
Tháng 11, có sao băng dài 5 trượng sa xuống đt, tiếng kêu như sét đánh.
Họ Mc lấy Bắc quân đô đốc phủ tả đô đốc thự phủ sự Lâm quận công làm Binh bộ thượng thư chưởng bộ sự.
[26b] Canh Ngọ, [Chính Trị] năm thứ 13 [1570], (Mạc Sùng Khang năm thứ 5; Minh Long Khánh năm thứ 4). Tháng giêng, Thượng tướng dâng biểu tâu vua cho Nguyễn Hoàng đi các xứ Thuận Hoá và Qung Nam, thng suất binh tượng, thuyền bè, và trấn phủ dân địa phương để cõi phiên trấn được vững mạnh. Thượng tướng khuyên răn Hoàng rằng: "Nhà nước trao cho khanh chức nhiệm nng nề này, khanh nên trước sau mt tiết, dốc hết tâm sức như xưa để phò tá nhà vua". Hoàng cảm tạ vâng mệnh đến trn.
Gọi Tổng binh Quảng Nam là Nguyên quận công Nguyễn Bá Quýnh về.
Tháng 2, ngày 18, Thượng tướng Thái quốc công Trịnh Kiểm ốm nặng, ngày hôm y mt. Truy tôn là Minh Khang Thái Vương, thuỵ là Trung Huân. Có chiếu cho con trưởng là Tuấn Đức hầu Trịnh Cối thay lĩnh binh quyền, cầm quân đánh giặc. Bấy giờ Cối buông thả mình trong tửu sắc, ngày càng rông rỡ kiêu ngo, không [27a] thương gì đến quân lính. Do đó, các tướng hiệu đều có ý lìa bỏ, kẻ giúp đỡ ngày một ít đi, lòng người thay đi, ai cũng nghĩ đến chuyện sinh biến, mầm hoạ đã thành.
Tháng 4, ngày mồng 2, Đoan Vũ hu Lê Cập Đệ, n Phong hu Trịnh Vĩnh Thiệu1, Vệ Dương hầu Trịnh Bách cùng bọn Lương quận công, Phổ quận công và Lai qun công Phan Công Tích2 đang đêm đem con em và binh lính tới chỗ Phúc Lương hu Trịnh Tùng bàn định kế sách, ép Tùng phải hành động. Tùng bất đắc dĩ phi cùng với bn Cập Đệ, Vĩnh Thiệu thu thp binh tướng, đang đêm chy về hành ti Yên Trường.
Hôm sau, đến dinh Kim Thành, ép Nghĩa qun công Đặng Huấn cùng đi đến cửa khuyết vào bái yết vua. Bọn Tùng khóc nói rằng:
"Anh thn là Cối say đắm tửu sắc, mất lòng mọi người, sớm mun thế nào cũng sinh loạn, lại đêm ngày mưu đoạt binh tượng và ấn báu của thần, nên bọn thn [27b] phải nửa đêm trốn vào cửa khuyết, đau xót báo tin, xin thánh thượng thương tình thu np!"
Vua nói: "Khi thượng phụ còn sống không đến ni thế, làm thế nào bây giờ?"
Phúc Lương hầu cùng bọn Cập Đệ, Vĩnh Thiệu, Bách mt tâu vua dời hành ti vào trong cửa i Vn Lai, chia quân chiếm giữ cửa luỹ để phòng bị quân bên ngoài.
Hôm sau, Trịnh Ci tự mình đc sut bọn Phúc quận công Li Thế Mỹ3, An quận công Li Thế Khanh, Lâm quận công Nguyễn Sư Doãn, Thạch qun công Vương Trân, Vị quận công Lê Khắc Thn, Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu4, Hùng Trà hầu Phạm Văn Khoái5, Hoành qun công (không rõ tên), và hơn 1 vạn quân, đuổi đến ngoài cửa quan, đóng dinh ở đấy. Ci đóng quân vài ngày, các tướng trong cửa i cũng đóng cửa giữ không ra. Hai bên sai người đưa thư qua lại, bên này nói xấu bên kia, lời lẽ rất ngạo mạn.

1 Trịnh Vĩnh Thiệu: người xã Biện Thượng, huyện Vĩnh Lộc, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hoa, nay thuộc huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
2 Phan Công Tích: người xã Thái Xá, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An.
3 Li Thế M: người xã Quang Lãng, huyện Tống Sơn, nay thuộc huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá.
4
Nguyễn Hữu Liêu: người xã Tây Tu, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội.

5 Phạm Văn Khoái: người xã Tiêu Phấn, huyện Thượng Nguyên, phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam, nay thuộc tỉnh Nam Hà.
613                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Ngày mng 7, vua sai sứ ra chiêu dụ các tướng ở ngoài cửa quan, bảo họ giảng hoà. [28a] Bọn Lại Thế Khanh nói: "Không ngờ ngày nay bọn chúng ta thành ra ở dưới người khác", ri không chịu hoà, nói là đem quân đánh vào cửa khuyết, rồi bày chiến trận.
Lại Thế Mỹ dùng giáo trỏ vào cửa quan: "Bao giờ bắt được người ở trong cửa quan thì việc mới hoà được".
Vua biết ý không hoà giải được, bèn sai các tướng đc quân chống lại, suốt ngày đêm không nghỉ.
Cối thấy đánh mãi không đưc, trong lòng ngần ngại, tự lui quân về Biện Dinh, hội các tướng tá dưới quyền và nói: "Trong cửa quan có quân1, ngoài cõi có giặc2, ta ở quãng giữa, nếu có tai biến khẩn cấp thì khó mà chống đỡ được". Bèn hạ lệnh chia quân chiếm giữ những nơi xung yếu, Vũ Sư Thước thì giữ cửa biển Linh Trường và Hi Triều3, Li Thế Khanh giữ cửa biển Chi Long4 và Thần Phù, Nguyễn Sư Doãn giữ cửa biển Du Xuyên5 và Ngọc Giáp6 đề phòng quân Mạc vào đánh. Bọn Li Thế Mỹ, Lê Khắc Thân, [28b] Nguyễn Hữu Liêu, Phạm n Khoái chỉnh đốn binh tượng, thuyền bè, khí giới, ngày đêm đóng đồn dc bờ sông đề phòng các tướng trong cửa quan xông ra đánh. Li sai Nguyên quận công Nguyễn Bá Quýnh trấn thủ Nghệ An để vỗ yên dân miền y.
Tháng 8, người châu Bố Chính là Lập qun công (không rõ tên)7 thấy Thái vương mất và Tuấn Đức hầu Trịnh Cối anh em bất hoà, Thanh Hoa rối loạn, mới dẫn con em đầu hàng họ Mc. Họ Mc ban tước Tiên qun công, sai đem quân đi trước dẫn đường.
Ngày 16, họ Mạc sai Kính Điển đốc suất các thân vương và tưng tá, đem hơn 10 vạn quân, 700 chiếc thuyền chiến, đánh cướp Thanh Hoa. Khi đến cõi, liền chia quân sai Đôn Nhưng8 cùng với tướng Bắc đo là Gia quận công Mc Đình Khoa và phó tướng là Mậu qun công (không rõ tên) đem quân giữ [29a] cửa biển Thn Phù. Sau khi đã tiến vào, chia sai tướng bản đạo là Hoằng quận công (không rõ tên) làm đi thứ nht đi tiên phong, tướng Nam đạo là Thạch qun công Nguyễn Quyện làm đội thứ 2, tướng Tây đo là Ngạn quận công Mạc Ngọc Liễn làm đi thứ 3, tướng Đông đạo là Hoa qun công và Kỳ quận công (đu không rõ tên) làm đội thứ 4, Kính Điển từ đc đại quân trung dinh làm đi thứ 5, các thân vương tông tht họ Mạc thống đc quân của vệ Triều Đông và các ni vệ làm đội thứ 6, ngay hôm ấy, cùng tiến vào các cửa biển Linh Trường, Chi Long, Hội Triều, hi quân Bút Cương9. Đến Hà Trung, đóng dinh ven sông. Hai bên bờ khói lửa mù mịt che khuất đến 10 dặm.
Trịnh Cối tự liệu không chống nổi, thế quân ngày càng cô lập, liền đem bn Li Thế Mỹ, Vũ Sư Doãn, Trương Quốc Hoa và vợ con đón hàng họ Mạc. Kinh Điển tiếp nhn, phong cho Cối [29b] tước Trung Lương hu, lấy Li Thế Mỹ làm Khánh quận công, Nguyễn Sư Doãn làm Lý quận công, Vương Trân làm Sơn qun công, sai các tướng này dẫn quân bản bộ tiến trước. Duy có Vũ Sư Thước10 định bỏ doanh trại vào cửa quan Yên Trường theo vua, nhưng quân lính muốn hàng họ Mạc, không chịu theo. Sư Thước bất đắc dĩ phi về theo họ Mc với mi người, họ Mc ban tước là Thuỷ qun công. Li Thế Mỹ bỏ dinh

1 Chỉ quân của Trịnh Tùng.
2 Chỉ quân của họ Mạc.
3 Linh Trường: là cửa Lạch Trường. Hội Trường: là cửa sông Mã, đều thuộc tỉnh Thanh Hoá.
4 Cửa Chi Long: hay cửa Bạch Câu, là cửa sông Nga Giang hay sông Lèn, ở huyện Nga Sơn, Thanh Hoá.
5 Cửa Du Xuyên: là cửa Bạng bây giờ, ở xã Du Xuyên, huyện Ngọc Sơn, nay là huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá.
6
Cửa Ngọc Giáp: sau là cửa Hãn, nay là cửa Chép, ở tỉnh Thanh Hoá.

7 CMCB 28, 25 ghi tên của viên tướng nay là Lập Bạo.
8 Đôn Nhượng: là con út của Đăng Doanh.
9 Bút Cương: theo Cương mục, chú là tên xã, thuộc huyện Vĩnh Phúc (tức huyện Vĩnh Lộc; tỉnh Thanh Hoá) (CMCB28, 29). Bản dịch cũ cho là xã Bút Sơn, huyện Hoằng Hoá ngày nay.
10 Vũ Sư Thước: người huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá.
614                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
đem quân trn vào Vĩnh Ninh1 quan huyện Cm Thuỷ, vào cửa quan Yên Trường. Bấy giờ Hoàng Đình Ái đóng quân sông Kim Bôi, đem quân bản bộ dời đến giữ sách Đa Nẫm, rồi dn Lê Khắc Thận, Nguyễn Hữu Liên và Hùng Trà hầu cùng đem quân vào cửa quan Yên Trường hi quân. Hoành qun công tự đem quân bản bộ về Nghệ An cùng với Nguyễn Bá Quýnh chia giữ đt y.
Ngày 20, vua sắc phong Trịnh Tùng làm trưởng qun công, tiết chế [30a] các dinh thuỷ b, cm quân đánh giặc. Hôm y, Tiết chế Trịnh Tùng hi các tướng, mở tiệc uý lạo quân sĩ. Võ tướng Vinh quận công Hoàng Đình Ái, Tấn qun công Trịnh Mô2, Lương qun công (chưa rõ tên), Đoan Vũ hầu Lê Cp Đệ, Vệ Dương hầu Trịnh Bách, Văn Phong hầu Trịnh Vĩnh Thiệu, Nghĩa qun công Đặng Huấn, Lai quận công Phan Công Tích, Vị quận công Lê Khắc Thn, Dương qun công Nguyễn Hữu Liêu, Hùng Trà hầu Phạm Văn Khoái, Tây Hưng hu Hà Thọ Lộc cùng 30 viên tướng hiệu, văn thn là bn Li bộ thượng thư Từ quận công Nguyễn Đình3 12 viên, đều chỉ trời mà thề, đồng lòng chung sức, ngày đêm bàn kế đánh giặc, chia quân chiếm gi cửa luỹ các xứ, đào hào đp luỹ, đặt phục binh gi nơi hiểm yếu để phòng quân Mc.
Ngày 25, họ Mạc ra quân lớn, các đo cùng tiến, dọc sông mã từ Ưng Quan4 trở [30b] xuống, dọc sông Lam từ Bổng Luật5 trở xung khói lửa mù trời, cờ xí rợp đất. Nhân dân Thanh Hoa dắt già cõng trẻ, chy nhớn nhác ngoài đường, không biết nương tựa vào đâu, tiếng kêu khóc vang trời, bao nhiêu tiền của, đàn bà con gái đều bị quân Mạc lấy cả.
Bấy giờ, họ Mạc cậy có tướng nhiều quân mạnh định thôn tính cả đất Ái Hoan6, đánh vào ngoài luỹ Yên Trường ngày đêm không ngớt. Quan quân thế yếu, chỉ đp luỹ cao, đào hào sâu, giữ chỗ hiểm để chờ thời.
Tháng 6, bọn Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ dùng mẹo sai quân lính ban đêm dựng luỹ tầng ngoài kéo dài đến hơn 10 dặm, lấy nhiều vách nhà7 để che chn, dùng bùn trát bên ngoài, trên thả chông tre, chỉ một đêm mà thành giả làm xong. Hôm sau, Mạc Kính Điển trông thy, cho là thành thật, sợ lắm, không dám đến gn, bàn với các tướng rằng: "Không [31a] ngờ ngày nay quân Lê vẫn còn kỷ lut, pháp lệnh nghiêm minh như vậy. Chỉ mt đêm mà đp thành luỹ đâu ra đấy! Hẳn là số quân lính liều chết còn nhiều, nên mới dốc sức đp xong chóng thế, khiến lòng ta không yên. Không dồn hết công sức, thì chưa dễ dẹp đưc. Nếu ta không đánh gấp diệt trừ đi, thì tt sẽ trở thành mối lo sau này". Bèn tự ình đc suất tướng sĩ, ngày đêm đánh gp, hẹn phải lấy được mới thôi. Do vậy, bên tả sông từ Da Châu, Tàm Châu, bên hữu sông, từ đầu nguồn hai huyện Lôi Dương, Nông Cống đều là chiến trường, hầu như mất hết vào tay gic. Bấy giờ nhân dân các huyện Thanh Hoa tan tác tháo chy, rung đng bỏ không cày cy, nhiều người bị chết đói.
Tháng 9, sai Hà Khê hầu đem quân ra giữ luỹ Ai ở huyện Cẩm Thuỷ, nhân dịp này, y làm phản đu hàng họ Mạc. Vua lấy Tây Hưng hu Hà Thọ Lộc thay giữ đt ấy.

1 Vĩnh Ninh: tên huyện, sau là huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá.
2 Trịnh Mô: người xã Nông Sơn, huyện Nam Đường (sau là Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), trước họ Nguyễn, tên là Cảnh Hoan. Sau được chúa Trịnh ban cho họ Trịnh, đổi tên là Mô.
3 Nguyễn Đình: người xã Hoàng Xá, huyện Từ Liêm (nay thuộc ngoại thành Hà Nội).
4 Ưng Quan: Cương mục chú làở tổng Cổ Lũng, huyện Cẩm Thuỷ. Ưng Quan là cửa quan trên sông Mã, ở khoảng mường Ông, tổng Thiết Ông sau này.
5 Bổng Luật: có sách chép là Bổng Tân, tức bến Bổng, ở phía thượng lưu Bái Thượng, trên sông Chu. Sông Lam nói ở đây là đoạn sông Chu chảy qua huyện Thuỵ Nguyên, phủ Thiệu Hoá (nay là huyện Thiệu Hoá, tnh Thanh Hoá).
6 Ái Hoan: trước là tên hai châu. Chỉ vùng đất Thanh Hoá sau này.
7
Cương mục chép là "phên
nứa" (CMCB28, 26).
615                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
[31b] Tháng 10, tướng Mạc đem quân giao chiến với quan quân, chống nhau sông Bảo Lạc, Long Sùng1. Các tướng hay dùng kỳ binh, ban ngày thì cố thủ, ban đêm thì đánh cưp doanh tri, quy rối quân địch. Từ đấy, quân Mạc phấp phng kinh sợ, lính thủ ngự bị đâm chém nhiều. Mi khi chém ct được tai giặc thì đưc thưởng bạc, nên quân lính nhiều kẻ tự nguyện xông ra, liều sức đánh quân Mc về ban đêm. Quân Mạc tuy nhiều, nhưng có nhiều người bỏ trốn. Mạc Kính Điển thy đánh mãi không được, liền lui giữ dinh Hà Trung, hạ lệnh cấm không được mang muối lên bán ở đầu nguồn mà liên lạc với quan quân. Sau có người gánh trm muối vào luỹ, bị bt chém để thị chúng.
Tháng ấy, Vũ Sư Thước mật sai ngưi ngầm vào trong luỹ dùng thư đầu hàng, xin mang tội về chầu. Vua nhận đưc thư của Sư Thước, liền hội các tướng bàn đem đi quân tiến đánh để lấy lại [32a]2 đt nước, chia quân thành ba đạo cả tiến. Sai bn An quận công Li Thế Khanh, Đoan Vũ hu Lê Cp Đệ, n Phong hu Trịnh Vĩnh Thiệu, Tấn qun công Trịnh Mô đem quân ra phía tả, từ huyện Yên Định qua huyện Vĩnh Phúc, đánh lấy huyện Tng Sơn.
Gia phong Trường quận công Trịnh Tùng làm tả tướng, tiết chế tướng sĩ các dinh quân thuỷ bộ các xứ. Vua tự làm đô tướng, thống đốc đại quân ra đường giữa, từ huyện Thuỵ Nguyên, qua huyện Yên Định thng đến đóng quân ở huyện Đông Sơn. Bọn Vinh qun công Hoàng Đình Ái, Nghĩa quận công Đng Huấn, Li qun công Phan Công Tích, Vệ dương hu Trịnh Bách đem quân ra đưng phía hữu, qua các huyện Lôi Dương và Nông Cống, đánh lấy miền Quảng Xương. Vua đến đóng dinh ở huyện Đông Sơn, Vũ Sư Thước đem 500 quân bn b, nửa đêm, hồi canh ba bỏ dinh đi, sáng hôm sau đến ngự dinh ở Đông Sơn [32b] lạy xin chịu ti. Vua dùng lời an ủi, cho giữ chức cũ, vỗ về các tướng sĩ, ba quân đều cả mừng. Sư Thước lại đến dinh tả tướng, khóc kể lại tình nghĩa xưa, các quân đu rất vui vẻ. Tđấy, quan Thanh lừng lẫy, quân Mc hễ đánh là thua, không dám tiến đánh nữa, lui về giữ dinh sông Bút Cương.
Ngày 20, vua sai người làm cu phao ở phía hạ lưu sông An Liệt3, qua Kim Bôi. Vua cùng tả tướng đem đi binh qua sông, đến xã Kim Tử4, đi tt qua huyện Thuần Hựu5 để tiến đánh các dinh quân Mc. Sai Vũ Sư Thước chiêu tp quân cũ của huyện ấy, đưc hơn 1000 người, cho làm tiên phong khiêu chiến quân Mc ở bến sông Lôi Tân6. Bọn Lại Thế Khanh và Lê Cập Đệ đánh Tống Sơn và Nga Sơn, lấy được, đi đến đâu quân Mc tan chạy đến đó, nhân dân đưc trở về yên nghiệp.
Tháng 12, bn Mc Kính Điển thấy7 [33a] đánh mãi không được, bàn rng:
"Tiến quân đánh giặc mnh đã tri 9 tháng trời mà chưa thành công. Hơn nữa, bây giờ mùa đông rét mướt, sông nước vơi cạn, lại thêm mưa xuân sắp đến, chướng khí sẽ sinh, quân không đủ ăn, người nào cũng nhớ quê, còn ai đồng lòng gắng sức với ta nữa. Huống chi, quân ta lại dần dần trễ biếng, chi bằng hãy tạm rút quân về, lần sau sẽ đánh tới toàn thắng. Nếu cứ giữ mãi chỗ này, sợ không có ích gì, chỉ khiến quân địch cười cho thôi". Bèn hạ lệnh nhổ trại mà về.
Bất ngờ Trịnh Cối và mẹ là Thái Vương phu nhân cùng vợ con và bọn Lại Thế Mỹ, Trương Quc Hoa, đã trót đầu hàng họ Mạc, không dám trở về nữa, bèn đem con em trai gái hơn 1000 người ra biển theo Kính Điển về Kinh sư, đến lạy chào họ Mạc. Thch qun [33b] công8 đem quân đến cửa khuyết rp

1 Bo Lạc, Long Sùng: là tên 2 xã thuộc huyện Thuỵ Nguyên, phủ Thiệu Hoá. Sông Bảo Lạc, Long Sùng tức là đoạn sông Chu chảy qua hai xã đó.
2 Nguyên văn (bn Chính Hoà) mất tờ 32, chúng tôi dịch theo bản A3 (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) để bổ sung vào.
3 An Liệt: tên xã, Sông An Liệt tức đoạn sông chảy qua xã An Liệt, huyện Vĩnh Phúc (nay là huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá).
4
Kim T: tên xã, cũng thuộc huyện Vĩnh Phúc.

5 Thuần Hựu: tên huyện, nay là huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá.
6 Sông Lôi Tân: theo CMCB28, 29 thì Lôi Tân là tên xã, thuộc huyện Vĩnh Phúc (nay là huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá).
7 Từ đây lại dịch theo bản Chính Hoà.

8 Thch quận công: tức Vương Trân, trưc theo Trịnh Cối.
616                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
đu xin chịu tội. Nguyễn Sư Doãn đem con em về chiếm giữ huyện Ngọc Sơn1, cy chỗ núi cao sông sâu, không chịu quy thuận. Vua sai Lê Cập Đệ cùng các tưng đem quân tinh nhuệ đi đưng tắt đến huyện Ngọc Sơn đánh úp. Sư Doãn đã biết trước, đang đêm xuống thuyền trốn đi đu hàng họ Mạc.
Năm ấy phủ Hà Trung được mùa to, nhà nào cũng thừa thóc.
Tân Mùi, [Chính Trị] năm thứ 14 [1571], (Mạc Sùng Khang năm thứ 6; Minh Long Khánh năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 2, vua xét công đánh giặc và phong quan tước.
Gia phong Tả tướng Trường qun công Trịnh Tùng làm thái uý Trường quc công; Đoan Vũ hu Lê Cp Đệ vì dũng cm, quyết đoán, và có nhiều kế sách được thăng làm thái phó; bọn Vệ Dương hu Trịnh Bách, Văn Phong hu Trịnh Vĩnh Thiệu, Lương quận công (không rõ tên), Tấn qun công Trịnh Mô, An qun công Li Thế [34a] Khanh, Nghĩa qun công Đặng Huấn, đu được thăng làm thiếu phó, ngôi thứ ở hàng dưới. Li phong em rut của tả tướng là Trịnh Đỗ làm thiếu bo Phúc Diễn hầu; Trịnh Đồng làm Vĩnh Thọ hu, Trịnh Ninh làm Quảng Diên hầu, đều sai đem quân đánh giặc để mưu khôi phục.
Họ Mc mở khoa thi Hi. Cho Nguyễn Miễn, Nguyễn Cung đỗ tiến sĩ cp đệ; bọn Nguyễn Hoàng 2 người đỗ tiến sĩ xut thân; bọn Hoa Hữu Mô 12 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
Ra lệnh cho những người xiêu tán trong cơn binh lửa các huyện, xã xứ Thanh Hoa trở về quê quán yên ổn làm ăn.
Tháng 7, họ Mạc sai Kính Điển đốc sut quân lính vào cướp đánh các huyện Nghệ An. Bấy giờ, dân Nghệ An sợ uy giặc đã lâu, địa thế lại xa cách, quan quân không thể cứu giúp đưc, phần nhiều đầu hàng họ Mc. Vì thế, từ sông C2 vào Nam đều là đt của giặc. Viên thổ tướng Nguyên qun công Nguyễn [34b] Bá Quýnh nghe tin giặc đến giật mình kinh hãi, chưa thấy bóng đã bỏ chạy. Hoàng quận công chng nhau với giặc Nguyễn Quyện, sức không địch nổi, bỏ cả thuyền chy vào Hoá Châu, bị giặc bắt sng. Từ sông Cả về Bắc, lại thành đất của giặc. Từ đó, thế giặc lại mạnh, đi đến đâu, dân đều bỏ chạy.
Năm y, người huyện Khang Lc, Thuận Hoá là Mỹ quận công3 đem quân bản bộ mưu đánh Đoan qun công Nguyễn Hoàng, thôn tính quân lính của Hoàng rồi về hàng họ Mạc. Hoàng biết đưc, đem quân đánh giết chết. Đt Thuận Hoá tạm yên. Sau các thổ tướng ở Qung Nam đánh giết, thôn tính lẫn nhau, Hoàng đều đánh dẹp được c, giao cho tỳ tướng là Dũng qun công4 ở lại giữ đt và thu nhặt quân lính còn sót lại.
Tháng 9, vua bàn với tả tướng Trịnh Tùng chia quân cho Tấn quận công Trịnh Mô là Lai qun [35a] công Phan Công Tích đi cứu Nghệ An. Quân Mc rút về, Nghệ An lại yên.
Tháng 10, vua sai Thái phó Đoan Vũ hu Lê Cập Đệ đem quân vào đánh dẹp miền Thiên Quan, đều dẹp yên.
Bấy giờ, chúa nước Ai Lao là Sạ Đẩu dâng 4 con voi đực và vật báu để cầu hôn. Vua muốn hoà hảo với nước láng giềng, bèn đem con gái riêng của vợ mình, phong làm Ngc Hoa công chúa gả cho.
Năm ấy đất Thanh Hoa mất mùa, dân đói to, nhiều người xiêu giạt.
Bấy giờ, người sách Thái Lai, huyện Thuỵ Nguyên là Lê Cảnh Thun tự xưng là Si Nhân5 hầu.

1 Ngc Sơn: tên huyện, nay là huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá.
2
Sông C: tức sông Lam.

3 Mỹ qun công: CMCB18 chép là Mỹ Lương: Mỹ Lương cùng hai em là Văn Lan và Nghĩa Sơn đều vì dâng thóc cho họ Trịnh, được chuyện việc trưng thu tô, thuế. Bởi có công lao, Mỹ Lương được làm tham đốc, Văn Lan và Nghĩa Sơn làm thự vệ. Khi quân Mạc vào đánh Nghệ An, đất Thuận Hoá bị dao động, Mỹ Lương định đánh úp Vũ Xương rồi thu lấy cả quân ở đó về hàng họ Mạc.
4 Cương mục chép: Sai thuộc tướng là Mai Đình Dũng ở lại trấn thủ Quảng Nam (CMCB28, 30).
5 Si Nhân có nghĩa là "thằng ngốc".
617                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
Nhâm Thân, [Hồng Phúc] năm thứ 1 [1572], (Mc Sùng Khang năm thứ 7; Minh Long Khánh năm thứ 6). Mùa xuân, tháng gêng, vua tế trời đất ở đàn Nam Giao. Khi làm lễ, vua bưng lư hương khấn trời xong, bỗng lư hương rơi xung đất. [35b] Vua biết là điềm chẳng lành, bèn xuống chiếu đổi niên hiệu thành Hng Phúc1 năm thứ 1.
Tháng 3, Lê Cập Đệ ngầm có chí khác, mưu giết Tả tướng để đoạt binh quyền, từng rủ Tả tướng đi thuyền ra giữa sông để giết. Tả tướng biết được, mưu y không thành. Từ đấy, hai nhà thù oán nhau, bên ngoài thì giả vờ hiệp sức để lo đánh giặc, nhưng bên trong thì đều ngờ nhau, đề phòng ám hi nhau.
Mùa thu, tháng 7, họ Mạc sai Kính Điển đc suất quân lính xâm lấn các xứ Thanh Hoa, Nghệ An. Vua bàn với các tướng, ra lệnh cho quân dân dọc sông của các huyện2 di chuyển của cải, súc vt tránh vào rừng núi để phòng quân giặc.
Tháng 8, quân Mạc quả nhiên kéo đến bắt người cướp của, nhưng dân chúng các huyện ven sông đã di tản đi c, chỉ còn lại một vùng đất bỏ không.
Bấy giờ, viên tướng vong mệnh3 ở Bố Chính là Tiên quận công [36a] dn đưng cho tướng Hi Dương là Lp qun công4 đem hơn 60 binh thuyền đi đưng biển vào cướp các xứ Thuận Hoá và Qung Nam. Dân địa phương nhiều người đu hàng. Từ đấy, thế giặc lại mạnh. Trấn thủ Nguyễn Hoàng dùng mưu dụ Lp đến, chém ở giữa sông, quân giặc tan vỡ, vượt biển trở về, bng gặp gió bão, chết hết ở ngoài khơi5. Tiên quận công trốn về châu Bố Chính, lại về với họ Mc. Đất Thun Quảng lại được yên. Hoàng vỗ trị mấy chục năm, chính lệnh khoan hoà, thưởng ban ân huệ, dùng phép công bằng, chấn chỉnh, khuyên răn tướng sĩ bản bộ. Cấm chỉ, trừ bỏ bọn hung ác, dân hai trấn đu cm mến nhân đức, thay đổi phong tục, chợ búa không nói thách, dân chúng không làm giặc, cng ngoài không phải đóng, thuyền buôn nước ngoài đều tới buôn bán trao đổi phải giá, quân lệnh nghiêm cẩn, người người gng sức. Do vậy, [36b] họ Mc không dám dòm ngó, trong cõi đưc an cư lạc nghiệp.
Thái phó Vi quận công Lê Khắc Thn làm phản, vượt luỹ về hàng họ Mạc. Tả tướng Trịnh Tùng bắt các con của Tuân, Khoái, Thầm đều giết c.
Tháng 9, vua sai bn An quận công Li Thế Khanh, Tấn quận công Trịnh Mô, Lai qun công Phan Công Tích đem quân đi Nghệ An. Đến nơi thì quân Mạc rút lui, Nghệ An lại yên.
Năm y, các huyện ở Nghệ An, đồng rung bỏ hoang, không thu được hạt thóc nào, dân đói to, lại bị bệnh dịch, chết đến quá nửa, nhiều người xiêu giạt, kẻ thì lần vào Nam, người thì giạt ra Bắc, trong hạt rt tiêu điều.
Mùa đông, tháng 11, vua sai Lai quận công Phan Công Tích đi kinh lược xứ Thuận Hoá, uý lạo [37a] các tướng sĩ. Khi đến xứ đó, rt chú ý đến Nguyễn Hoàng. Hoàng cũng đem quân đến hi, đt tiệc thết đãi, giãi bày tình xưa nghĩa cũ rất là vui vẻ. Khi Công Tích về, Hoàng thân hành đi tiễn.
Ngày 21, Lê Cập Đệ từng có chí khác, định mưu hi Tả tướng Trịnh Tùng. Tả tướng giả vờ không biết, gửi biếu nhiều vàng. Khi Cập Đệ tới tạ ơn, Tùng sai đao phủ phục ở dưới trướng bt giết đi ri sai

1 Niên hiệu trước là Chính Trị có nghĩa là sửa sang việc trị nước. Còn Hồng Phúc có nga là "phúc ln".
2 Nên sửa theo câu dưới "... dân chúng các huyện ven sông" đúng hơn.
3 Vong mệnh: có nghĩa là "bỏ cả chức tước mà chạy trốn". Đây là viên tướng của Nguyễn Hoàng, bỏ theo về với họ Mạc.
4
Lp quận công: Cương mục chép là Lập Bạo (CMCB28).

5 Nguyễn Hoàng dùng kế mỹ nhân, sai Ngô Thị đem nhiều vàng lụa đến biết Lập Bạo, khuyên Bạo về với Nguyễn Hoàng. Lập Bạo nghe theo, đem mấy chiếc thuyền đến chỗ hội thề, phục binh của Hoàng nổi lên. Lập Bạo chạy xuống thuyền nhưng thuyền đã rời khỏi bờ, bèn lao mình nhảy theo, bị quân của Nguyễn Hoàng bắn chết (Xem CMCB28, 32).
618                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVI
người nói phao lên rằng Cp Đệ mưu làm phn, vua sai ta giết chết, tướng phn thì phi giết cả h. Thế là quân lính đều khiếp sợ, không ai dám hành động1.
Bấy giờ, Cnh Hp và Đình Ngạn nói với vua rằng: "Tả tướng cm quân, quyền thế rt lớn, bệ hạ khó lòng cùng tồn tại với ông ta được". Vua nghe nói vậy, hoang mang nghi hoặc, đương đêm, bỏ chy ra ngoài, đem theo bn hoàng tử cùng chy đến thành Nghệ An và ở lại đó. Tả [37b] tướng bàn với các tướng rng: Nay vua nghe lời gièm của kẻ tiểu nhân, phút chốc khinh suất đem ngôi báu xuôi giạt ra ngoài. Thiên hạ không thể mt ngày không có vua, bọn ta và quân lính sẽ lập công danh với ai đưc? Chi bằng trước hết hãy tìm hoàng tử lập lên để yên lòng người, ri sau sđem quân đi đón vua cũng chưa muộn. Bấy giờ hoàng tử thứ năm là Đàm ở xã Qung Thi, huyện Thuỵ Nguyên, bèn sai người đi đón về tôn lập làm vua, đó là Thế Tông2.

1 ơng mục dẫn Lê triều trung hưng lục của Hồ Sĩ Dương: Lê Cập Đệ bí mật bàn với vua, bố trí đâu vào đấy, hẹn với nhau là ban đêm, khi nghe tiếng pháo nổ thì nhà vua qua sông để cử sự. Tùng biết rõ chuyện đó, nhưng vẫn cứ biếu Cập Đệ nhiều vàng bạc. Khi Cập Đệ đến tạ ơn, thì Tùng cho đao phủ mai phục sẵn xông ra giết chết.
2 Lúc y Hoàng tử Lê Duy Đàm mi lên 7 tuổi, được nuôi dưỡng ở xã Quảng Thi, một xã ở phía dưới Lam Sơn, thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá ngày nay.
Đi Việt SKý Bn KTc Biên
Quyển XVII
[1a]
KNhà Lê
Ph: Họ Mạc (Mậu Hợp 20 năm)
Thế Tông Nghị Hoàng Đế
Tên húy là Duy Đàm, con thứ năm của Anh Tông, ở ngôi 27 năm, thọ 33 tuổi.
Vua tuổi còn thơ ấu, tin dùng huân thần, nên dẹp yên đưc kẻ tiếm nghịch, khôi phc được cơ nghiệp cũ, làm nên thái bình. Công trung hưng còn gì lớn hơn thế nữa!
Vua sinh ngày tháng 11 năm Chính Trị thứ 10 [1567], được nuôi dưỡng Quảng Thi, huyện Thụy Nguyên. Khi Anh Tông chạy ra ngoài, vua còn thơ ấu nên không đi theo, được Tả tướng Trịnh Tùng đón về lập làm vua. Ly ngày sinh làm Dương Nguyên thánh tiết.
Quý Dậu, [Gia Thái] năm thứ 1 [1573], (Mc Sùng Khang năm thứ 8; Minh Vạn Lịch năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng mt, Tả tưng Trịnh Tùng và các quan văn võ cùng tôn hoàng tử lên ngôi hoàng đế, đi niên hiệu, đi xá, [1b] ban dụ đi cáo, đại lược nói: Ta nghe thượng đế mở rng công nuôi dưỡng muôn loài, tất ngay dịp xuân mà ban ân đức, vương gi giữ gìn buổi đu tức vị, phải ra mệnh lệnh dụ bảo thn dân. Trên dưới hợp nhau, đồng lòng một chí. Nước nhà ta, nhân thời cơ mà mở vận, gây dựng nước bằng lòng nhân.
Mt tổ khai sáng đầu tiên, các thánh kế ni sau mãi, truyền nhau chính thống đã hơn một trăm năm. Vừa rồi, gp cơn vận ách, giềng mi rối tung. May nhờ lòng người còn theo, mnh trời còn đó. Thánh phụ hoàng thương ta là dòng dõi nhà vua, nối cơ đồ của tông tổ, khôi phục nghiệp lớn, tri hơn mười tám năm. Ngày 26 tháng 2, bị kẻ gian là bọn Cảnh Hp, Đình Ngn gièm pha, ly gián, đến ni xa giá phiêu giạt ra ngoài, thn dân trong nước không chỗ nương tựa. Ta là con thứ năm của hoàng phụ, đương tuổi thơ non nớt, ni nghiệp lớn khó khăn, [2a] chỉ sợ không cáng đáng nổi. Nhưng trên vâng mệnh trời yêu mến, dưới theo lòng người suy tôn, từ chối không được, nên vào ngày mồng mt tháng giêng năm nay, ta đã lên ngôi, đặt niên hiệu là Gia Thái năm thứ 11, thực là nhờ được đi thần Tả tướng thái uý Trường qun công Trịnh Tùng và các quan văn võ đng lòng giúp sức để dẹp yên xã tc. Vy ban chiếu mệnh 6 điều để các nơi gần xa được biết:

1. Người dân nào bị nạn binh lửa không còn tài sản gì đều được tha tạp dịch.
2. Dân nghèo xiêu giạt cho về quê cũ, và được tha thuế khoá, sai dịch.

3. Những người theo trộm cướp và những kẻ trốn tù, trốn tội nếu đến thú ti ở cửa quan thì được ân xá, tha ti.
4. Các nha môn trong ngoài nếu có người tù bị giam nào ti nhẹ thì thả cho ra.
1 Gia Thái (1573 - 1577), sau lại đi là Quang Hưng (1578 - 1599).
620                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
5. Các quan văn võ người nào có công thì cho thăng tưc mt bc1.
6. Con cháu các quan viên, người nào bị oan khut, kìm hãm, thì cho làm bản tâu lên, [2b] sẽ tùy theo tài năng mà bổ dụng.

Các nha môn trong ngoài hãy kính theo đó mà thi hành.
Bấy giờ, Hồng Phúc Hoàng Đế2 xiêu giạt ở Nghệ An, các hoàng tử Bách, Lựu, Ngạnh, Tùng đều theo đi. Tả tướng Trịnh Tùng sai bọn Nguyễn Hữu Liêu tiến quân đến thành. Vua tránh ra ruộng mía. Bọn Hữu Liêu quỳ lạy ở rung nói: "Xin bệ hạ mau trở về cung để yên lòng mong đợi của thn dân trong nước, bọn thần không có chí gì khác cả". Bèn đem 4 con voi đực đón vua trở về, sai bn Bảng quận công Tng Đức Vi3 theo hu, ngày đêm cùng đi. Ngày 22, về tới huyện Lôi Dương. Hôm ấy vua băng. Bấy giờ Tả tướng Trịnh Tùng sai Tng Đức Vi ngm bức hi vua rồi nói phao là vua tự tht cổ. Dâng tôn hiệu là Anh Tông Tuấn Hoàng Đế.

Bản kỷ nói: Anh Tông khởi thân từ hàn vi, vì là cháu xa đi của họ Lê, [3a] là dòng dõi của nhà vua, nhờ đưc Tả tướng Trịnh Tùng và các quan tôn lập làm vua thiên hạ, lo việc khôi phục gian nan. Sau tin dùng bọn tiểu nhân, nghe lời ly gián, khinh xuất đem ngôi áu xiêu giạt ra ngoài, hại ti thân mình. Lời kẻ tiểu nhân làm hỏng nước nhà của người ta, thực là quá lắm! Như thế há chẳng đáng răn sao!
Vua đã lên ngôi, phong Tả tướng thái uý Trường quc công làm đô tướng, tiết chế các xứ thuỷ bộ chư dinh, kiêm tổng nội ngoi bình chương quân quốc trng sự. Mọi công việc nhà nước đều được tự xử quyết trước ri sau mới tâu.
Lấy Thái phó Nhân quốc công Vũ Công Kỷ4 làm hữu tướng, bọn Vinh quận công Hoàng Đình Ái, Triều quận công Vũ Sư Tc, Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu đều làm thái phó. Trịnh Đỗ làm thái bảo Ngn quận [3b] công, Hùng Trà hầu Hà Thọ Lc là Lâm quận công. Lại sai sứ mang sắc thư vào Thuận Hoá phong Đoan qun công Nguyễn Hoàng làm thái phó, sai chứa thóc đsẵn dùng nơi biên i. Còn tiền sai dư5 thì hàng năm phi nộp 400 cân bạc, 500 tấm lụa.
Tháng 7, quân Mạc đánh dinh Yên Trường. Quan quân rút vào trong luđể tỏ là yếu. Hôm sau, giặc lại đắp thêm luỹ, định qua đò Đoạn Trch. Tiết chế Trịnh Tùng tung binh thuyền chia đánh, phá tan, giặc liền tháo chy về.
Tháng 10, sai Hữu tướng thái phó Nhân quốc công Vũ Công Kỷ đem quân bản bộ về trn gi Đại Đng6 để vỗ yên dân địa phương.
Bấy giờ Mạc Kính Điển đem Mạc Mậu Hợp trở về thành Thăng Long, sai quân làm doanh trại ở ngoài cửa Nam để ở.
[4a] Giáp Tuất, [Gia Thái] năm thứ 2 [1574], (Mc Sùng Khang năm thứ 9; Minh Vn Lịch năm thứ 2). Mùa xuân, hMạc mở khoa thi Hi. Cho Vũ n Khuê đỗ tiến sĩ cp đ; bọn Mc Đình Dự 10 người đỗ tiến sĩ xut thân; bọn Vũ Duy Hàn 13 người đỗ đồng tiến sĩ xut thân.
Tháng 6, họ Mạc sai tưng Nam đo là Nguyễn Quyện đem quân xâm lấn Nghệ An. Từ sông Cả trở về Bắc đều mt về họ Mạc. Hoàng quận công đánh nhau với giặc nhiều lần không đưc, thy quân lính nhiều kẻ bỏ trốn, bèn làm vòng st khoá chân quân lính vào thuyền. Quân giặc đuổi đến, họ cũng

1 Nguyên văn là chữ "thứ", theo chú thích ở Cương mục thì đáng lẽ phải là chữ "tư" (CMCB24, 2).
2
Hồng Phúc Hoàng Đế: tức Lê Duy Bang.

3 Tống Đức V: người xã Khoái Lạc, huyện Yên Định, tnh Thanh Hoá.
4 Vũ Công Kỷ: là con của Vũ Văn Mật, Kỷ người xã Ba Đông, huyện Gia Lộc, nay thuộc tnh Hải Hưng.
5 Nguyên văn là "mỹ dư", in lẫn chữ "sai" thành chữ "mỹ". Tiền sai dư là tiền nộp hàng năm của các trấn cho triều đình.
6 Đại Đng: là trấn lỵ của trấn Tuyên Quang, nay là vùng thị xã Tuyên Quang, tỉnh Hà Tuyên.
621                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
không chịu đánh. Hoành quận công bèn bỏ thuyền lên chạy bộ. Đến châu Bố Chính, bị tướng Mạc là Nguyễn Quyện bt sống đem về Kinh Ấp1 rồi bị hại.
Mùa thu, tháng 7, Tiết chế Trịnh Tùng sai Thái phó Lai quốc công Phan Công Tích2 Tấn qun [4b] công Trịnh Mô đem quân cứu Nghệ An, chống nhau với tướng Mạc Nguyễn Quyện đến vài tháng. Sau bọn Quyện đem quân về Kinh, Công Tích cũng thu quân về Thanh Hoa.
Bấy giờ Tiết chế Trịnh Tùng nắm hết mi quyền trong ngoài. Bọn Trịnh Vĩnh Thiệu, Trịnh Bách và Lương qun công ngầm mưu sát hi. Việc tiết lộ, đều bị bt hạ ngục để xử ti. Bà phi của Thái Vương3 là Nguyễn Thị ra sức cứu gỡ mới được khỏi ti, nhưng bị tước quyền (Bà phi của Thái Vương tức là mẹ của Tiết chế Trịnh Tùng).
Ngày 20, họ Mc phong cho Mạc Kỳ, con trưởng của Ly Vương Mạc Lý Tốn làm Hưng Lễ Vương.
Ất Hợi, [Gia Thái] năm thứ 3 [1575], (Mc Sùng Khang năm thứ 10; Minh Vạn Lịch năm thứ 3). Tháng giêng, ngày mồng 6, họ Mc sai Kính Điển đem quân xâm lược Thanh Hoa, bn Nguyễn Quyện đem quân xâm lược Nghệ An.
Bấy giờ, quân Mạc mạnh, tiến đến đâu, mọi người đều không dám chng lại, trốn xa vào núi rừng để tránh mũi nhn của chúng. Kính Điển tự [5a] đem đi binh tiến đánh các sông ở Yên Định và Thuỵ Nguyên4. Li chia quân cho bọn tướng Tây đạo Mạc Ngọc Liễn tiến đánh các huyện Lôi Dương và Đông Sơn5. Ngày hôm ấy, hai đo quân đều tiến.
Tháng 8, Tiết chế Trịnh Tùng sai thái phó Vinh quận công Hoành Đình Ái thống suất bn Nghĩa quận công Đỗ Diễn, Thạch qun công6, Hùng quận công Phan Văn Khoái đem quân đi cứu [các huyện] Lôi Dương, Nông Cống, Đông Sơn, đóng quân núi Tiên Mc7. Tiết chế tự dn đại quân Trung dinh, sai bọn Thái phó Triều qun công Vũ Sư Thước và Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu làm tiền đi đi tiên phong; Thái phó Vệ Dương hu Trịnh Bách, Vĩnh Thọ hu Trịnh Đồng, Quảng Diên hu Trịnh Ninh, làm Tả đi; Thái phó Văn Phong hầu Trịnh Vĩnh Thiệu, Thái phó Ngạn quận công Trịnh Đỗ, Lương qun công, Bảng qun công Tng Đức Vị làm Hữu đi; bn Lân quốc công Hà [5b] Thọ Lộc làm Hậu đội, đều tiến đến Chiêu Sơn8 đóng quân. Mc Kính Điển đem đi binh đánh ở Đông Lý9, huyện Yên Định. Bọn Sư Thước và Hữu Liêu tung kỳ binh ra đui.
Tháng ấy, sai bn thái phó An quận công Li Thế Khanh, Tấn qun công Trịnh Mô, Lai qun công Phan Công Tích đem quân đến cứu Nghệ An, đánh nhau mãi với tướng Nam đạo của họ Mc là Nguyễn Quyện không được. Quyện đem kỳ binh phục sẵn để đợi, đánh thắng luôn, bắt đưc Công Tích đem về.
Bính Tý, [Gia Thái] năm thứ 4 [1576], (Mạc Sùng Khang năm thứ 11; Minh Vn Lịch năm thứ 4). Mc Kính Điển lại đem quân xâm lược Thanh Hoa, tiến đánh sông Lam10 ở huyện Thuỵ Nguyên. Sai

1 Kinh ấp: tức kinh thành Thăng Long.
2 Phan Công Tích: người xã Thái Xá, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An.
3 Tức Trịnh Kiểm.

4 Dịch theo nguyên văn. Cương mục chép là "thẳng tiến đến huyện Thuỵ Nguyên và huyện Yên Định (CMCB24, 6), chú thích của bản dịch cũ ghi là phía hữu ngạn hạ lưu sông Mã và tả ngạn hạ lưu sông Chu.
5 Lôi Dương và Đông Sơn: hai huyện của Thanh Hoá bấy giờ, tức vùng trung lưu và hạ lưu.
6 Bản dịch cũ ghi tên viên tướng này là Vương Trân.

7 Thuộc xã Tiên Mộc, huyện Nông Cống, Thanh Hoá.
8 Chiêu Sơn chưa rõ ở đâu.
9 Đông Lý: tên xã, thuộc huyện Yên Định, Thanh Hoá.
10 Đây là quãng sông Chu chảy qua huyện Thuỵ Nguyên, đối với Lam Sơn, chứ không phải là sông Lam ở Nghệ An.
622                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
tướng Tây đạo Mc Ngc Liễn đem quân tiến đánh sông Đồng Cổ1 huyện Yên Định. Li chia quân sai tướng Nam đo Nguyễn Quyện xâm lược Nghệ An, đánh nhau với Tấn quận công Trịnh Mô đến hơn vài tháng. Sau Trịnh Mô nhiều lần đánh không được, trn [6a] về Thanh Hoa, đến huyện Ngọc Sơn. Nguyễn Quyện nói: "Trịnh Mô đánh thua chạy về, rút quân không có hiệu lệnh, ta thế nào cũng bắt đưc nó". Bèn tự đốc quân đui tới Ngc Sơn, bt được ở giữa đường đưa về Kinh p. Từ đấy, oai thanh của Nguyễn Quyện ngày mt lừng lẫy, trở thành viên tướng danh tướng của họ Mc. Các tướng hùng, tôi giỏi cả miền Giang đông2 đều cho là mình không bằng.
Đinh Sửu, [Gia Thái] năm thứ 5 [1577], (Mc Sùng Khang năm thứ 12; Minh Vn Lịch năm thứ 5). Đặt Chế khoa chn nhân tài. Cho bọn Lê Trc Tú 3 người đỗ đệ nht giáp Chế khoa xut thân; bọn Hồ Bỉnh Quốc 2 người đỗ đệ nhị giáp đồng Chế khoa xut thân.
Họ Mc mở khoa thi Hội. Cho bọn Vũ Giới, Nguyễn Nhân Triêm, Phạm Gia Môn đỗ tiến sĩ cập đ; bọn Lê Viết Thng 5 người đỗ tiến sĩ xut thân; bọn Trn Như Lâm 10 người đỗ đồng tiến sĩ xut thân.
Họ Mạc ra lệnh lấy quân hạng nhất, nhì, ba ở các huyện, [6b] mỗi người mang đủ 3 tháng lương ăn để chun bị xâm lược Thanh Hoa.
Tháng 5, Tiết chế Trịnh Tùng hạ lệnh cho quan lại các xứ Thanh Hoa và Nghệ An đôn đốc dân các xã các huyện, hn từ trước tháng 6 phải kịp thời cày cấy, không được để chm, phòng khi quân đi qua, ảnh hưởng ti nghề nông.
Tháng 7, hạ lệnh cho dân cư các huyện dc sông xứ Thanh Hoa3, thu xếp của cải, gia súc, đưa vợ con vào lánh ở nơi hiểm yếu dưới chân núi để phòng quân giặc đến. Hạ lệnh cho các cửa biển và điểm tuần các nơi dọc đường đều đặt pháo hiệu. Nếu thấy quân giặc tới thì lập tức bn mt tiếng pháo hiệu làm tin, để cho cư dân nghe lệnh, sẵn sàng lánh đi chổ khác, không để quân giặc giết hại. Li hạ lệnh cho vùng chân núi các huyện nếu thy [7a] dân xã ven sông đưa trâu bò gia súc chạy đến với xã mình thì phải nghiêm ngặt tuần phòng, nếu có trộm cướp phi đem người đến cứu. Nếu không đến cứu, để mất mát tiền của súc vt của cư dân thì địa phương ấy phải chia nhau mà đn.
Tháng 8, Mc Kính Điển xâm phạm sông Đồng Cổ. Tiết chế Trịnh Tùng đích thân đem đại binh ra cửa luỹ Khoái Lạc4 chng lại. Quân Mạc đánh phá dinh Hội Thượng. Hoàng Đình Ái đem kỳ binh khiêu chiến. Nguyễn Hữu Liêu đem quân chặn phá giặc. Li đánh nhau với quân Mc ở Hà Đô. Tống Đức Vị ngã trên voi xuống suýt bị quân Mạc bắt sống. Trịnh Bách dồn nhiều binh tượng đến cứu thoát. Sau quân Mc li tiến đến Hà Đô. Bọn tướng Nam đo Nguyễn Quyện đem quân phục ở phía ngoài đê chờ đợi, rồi sai Hoàng quận công (không rõ tên) cùng với bn Lại Thế [7b] Mỹ đem quân khiêu chiến, tiến đến ngoài cửa luỹ Khoái Lạc. Thế Mỹ nhảy lên ngựa trước đến đánh. Quan quân dùng súng bắn chết dưới chân ngựa. Quân Mc tan vỡ. Các quân tranh nhau dâng tai Thế Mỹ cửa quân. Thưởng công.
Tháng 9, Mc Kính Điển đem quân về Kinh ấp. Quan quân cũng trở về dinh Yên Trường. Uý lạo ba quân.
Bấy giờ, ở Thanh Hoa mưa dm nhiều, nước lụt đến 7 lần, lúa má bị hạn nhiều, dân đói to.
Họ Mạc sách phong Vũ Thị Hoành là con gái của thự vệ sự vệ Cm y Phú Sơn hu Vũ Văn Khê làm chính phi.
Tháng 11, sao Chi mc, trở thng hướng đông nam, tua sáng dài đến 40 trượng, sắc hng và tía ánh nhau, người người đều kinh hãi.

1 Sông Đồng Cổ: khúc sông mã chảy qua địa phận xã Đan Nê, huyện Yên Định. Vì xã này có núi Đồng Cổ, trên núi có đền Đồng Cổ, nên gọi như vậy.
2 Chỉ miền thuộc phạm vi của nhà Mạc, đối với Giang tây là miền thuộc phạm vi của vua Lê chúa Trịnh.
3 Cương mục chú là các huyện Hậu Lộc, Nga Sơn, Yên Định (CMCB24).
4
Luỹ Khoái Lc: ở xã Khoái Lạc, huyện Yên Định, Thanh Hoá.
623                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
Tháng 12, ngày mồng 1, sao Chổi hết. Xung chiếu đi năm sau làm Quang [8a] Hưng năm thứ 1.
Mậu Dần, [Quang Hưng] năm thứ 1 [1578], (Mc Sùng Khang năm thứ 13; Minh Vạn Lịch năm thứ 6). Tháng 2, ngày 21, Mạc Mậu Hợp bị sét đánh trong cung, bị bi liệt nửa mình, sau chữa thuc lại khỏi, bèn đi niên hiệu, lấy năm y làm năm Diên Khánh thứ 1.
Tháng 7, Mạc Kính Điển đem quân vào lấn các huyện ven sông xứ Thanh Hoa. Tiến đến Giang Biểu1, Tiết chế Trịnh Tùng sai bọn Trịnh Bách đem quân vượt sông phục sẵn núi Phụng Công2, đánh nhau to ở cầu Phụng Công. Quan quân tập trung súng bn vào, quân Mc chết không xiết kể. Kính Điển liền rút quân về Kinh ấp.
Vua lập hành ti ở sách Vạn Li; lập đàn Nam giao ở ngoài cửa luỹ Vạn Li.
[8b] Tháng 10, tưng Tây đạo của Mc là Mạc Ngọc Liễn đem quân xâm lấn các châu huyện Tuyên Quang và Hưng Hoá, đến châu Thu và châu Vật3. Thái phó Nhân quận công Vũ Công Kỷ tung quân đánh lớn, quân Mạc tht bại rút về.
Kỷ Mão, [Quang Hưng] năm thứ 2 [1579], (Mạc Diên Thành năm thứ 2; Minh Vn Lịch năm thứ 7). Tháng 7, Mc Kính Điển lại đem quân vào xâm lấn Thanh Hoa, cưp phá vùng ven sông, đến sông Tng Sơn, phủ Hà Trung, đánh vào xã Chương Các. Tiết chế Trịnh Tùng sai Thái phó Nghĩa quận công Đng Huấn đc quân chống quân Mạc ở Thái Đưng4, sai Diễn quận công Trịnh Văn Hi làm tiên phong để khiêu chiến, đánh mnh vào núi Kim Âu5. Đặng Hun thúc quân tiến ngầm đến địa phương Tống Sơn, ra Mục Sơn ở sông Bình Hoà6 chn phía sau quân Mc. Quân Mc thua to phi rút về.
[9a] Tháng 9, Thái phó An quận công Li Thế Khanh chết, tặng Khiêm quc công.
Canh Thìn, [Quang Hưng] năm thứ 3 [1580], (Mc Diên Thành năm thứ 3; Minh Vn Lịch năm thứ 8). Nhà Mạc mở khoa thi Hi. Cho Đỗ Cung đỗ tiến sĩ cp đệ; bọn ĐTrực 3 người đỗ tiến sĩ xut thân, bọn Nguyễn Thọ Xuân 20 người đỗ đng tiến sĩ xuất thân.
Tháng 5, Bảng qun công Tống Đức Vị chết. Đức Vị người xã Khoái Lạc, huyện Yên Định.
Tháng 7, Mạc sai bọn tưng Nam đo Nguyễn Quyện, tướng Tây đạo Mạc Ngọc Liễn cùng viên tướng Hong quận công đem quân vào xâm lấn Thanh Hoa, cướp bóc tiền của, súc vt của dân cư các huyện dọc sông ri rút về.
Tháng 8, lập khoa thi Hi. Cho bọn Nguyễn n Giai7 4 người đỗ tiến sĩ xut thân, bọn Lê [9b] Quang Hoa 2 người đỗ đng tiến sĩ xuất thân.
Tháng 9, sao băng rất nhiều, tiếng vang như sm sét. Lại có sao Chi mọc.
Tháng 10, Mc Kính Điển chết. Kính Điển là người nhân hu, dũng lược, thông minh, tài trí, nhy bén, hiểu đời, từng trải nhiều gian nan nguy hiểm, cần lao, trung thành, sinh được 9 người con trai: con trưởng là Kính Chỉ phong Đưng An Vương phó tng soái, con thứ là Kính Trực phong Trung Cn công Cẩm y vệ chưởng vệ sự, Kính Giản phong Huệ Thành công Chiêu vũ vệ chưởng vệ sự, Kính Tuân phong Dũng Nghĩa công, Triều đông vệ chưởng vệ sự, Kính Thận phong Đt Lễ công, Kính Cung phong Đôn

1 Giang Biểu: tên xã, thuộc huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá.
2 Núi Phụng Công: tức dãy núi ở xã Phụng Công, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá.
3 Châu Thu, Châu Vt: CMCB24 chép là châu Thu Vật, vùng đất tương đương với huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái.
4
Thái Đưng: tên xã, thuộc huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá.

5 Kim Âu: tên xã, ở tả ngn sông Lèn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá.
6 Mục Sơn: tên núi ở xã Bình Hoà, huyện Tống Sơn, nay là huyện Hà Trung, Thanh Hoá.
7 Nguyễn Văn Giai: người Phù Lưu, huyện Thiên Lộc, sau là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Phùng Khắc Khoan cũng đỗ tiến sĩ ở khoa này. Bắt đầu từ khoa này, có lệ 3 năm một lần thi, nhưng chưa có thi Đình.
624                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
Hu công, Kính Thể phong Khuông Phụ công, Kính Bang chưa được phong. Con gái 9 người: con trưởng là Ngc Thụ phong Lương qun thượng chúa, con thứ là Ngc Quán phong Nghi [10a] qun thượng chúa, Ngọc Tỷ phong An quận thượng chúa, Ngọc Diễm phong Dương quận thượng chúa, duy có con gái bé 3 tuổi chưa được phong. Con gái nuôi là Ngọc Uyển phong Tiên quận thượng chúa.
Tháng 12, ngày mng 3, họ Mạc sai bn Lương Phùng Thìn, Nguyễn Nhân An, Nguyễn Uyên, Nguyễn Khc Tuy, Trn Đo Vinh, Nguyễn Kính, Đôngng, Vũ Cn, Nhữ Tông, Lê Đình Tú, Vũ Tĩnh sang nước Minh cng hàng năm.
Tân Tỵ, [Quang Hưng] năm thứ 4 [1581], (Mạc Diên Thành năm thứ 4; Minh Vn Lịch năm thứ 9). Mùa thu, họ Mc nghị bàn, trao cho viên phụ chính là Ứng Vương Mạc Đôn Nhượng1 thng lĩnh binh quyền, sai gi quân các đạo vào xâm lược các huyện ven sông ở Thanh Hoa. Đôn Nhượng liền đem quân vượt biển vào đến huyện Quảng Xương, đóng quân ở núi Đường Nang2.
Tiết chế Trịnh Tùng tâu vua sai Hoàng Đình Ái thống lĩnh các tướng tiến quân chng giữ. [10b] Đình Ái hi họp các tướng, chia thành ba đo: sai Nguyễn Hữu Liêu làm tiên phong, Đình Ái tự đc sut đi quân làm chính đội, tiến quân đối trn với quân Mạc; bn Trịnh Bính, Hà Thọ Lc làm tả đi chng quân Nguyễn Quyện, bọn Trịnh Văn Hi làm hữu đi, chng quân Mc Ngc Liễn. Bọn Trịnh Đồng, Trịnh Ninh làm hậu đi. Hôm y đều tiến quân, đánh nhau to với quân Mc. Quan quân nhuệ khí rt mạnh, người nào cũng mt mình địch nổi trăm người, chém hơn 600 thủ cp giặc, bt sống tướng giặc là bọn Chấn quận công Nguyễn Công và Phù Bang hầu (không rõ tên) ở trn tiền. Quân giặc đi bại, tan vỡ tháo chy. Đôn Nhượng và tướng sĩ các đạo sợ đến vỡ mật, thu nhặt tàn quân trốn về Kinh p. Quan quân toàn thắng khải hoàn, đến hành dinh dâng tù hơn vài trăm tên vừa tướng vừa quân. Chấn qun công Nguyễn Công là cháu gọi Nguyễn Hữu Liêu bằng cu. [11a] Tiết chế Trịnh Tùng tha tội cho, trao về cho Hữu Liêu vỗ về nuôi dưỡng, sau lại phong làm Tung quận công. Còn Phù Bang hầu và mấy trăm người bị bắt đều cp cho cơm áo thả về quê quán. Mọi người đu thm cảm ơn to. Tđấy binh uy lừng lẫy. Quân Mạc không dám dòm ngó nữa, cư dân Thanh Hoa, Nghệ An mới được yên nghiệp.
Năm ấy, Mạc Mậu Hợp bị bệnh thông manh mờ mt, tìm thầy thuc giỏi trong khp nước chữa liền mấy năm, bệnh khỏi, mt li sáng ra.
Nhâm Ngọ, [Quang Hưng] năm thứ 5 [1582], (Mc Diên Thành năm thứ 4; Minh Vn Lịch năm thứ 10). Tháng 1, ngày 26, họ Mạc sai Hộ bộ thượng thư kiêm Quc tử giám tế tửu Vịnh Kiều bá Hoàng Sĩ Khải và bọn Nguyễn Năng Nhuận, Nguyễn L, Vũ Văn Khuê, lên địa đầu Lạng Sơn đợi lệnh đón tiếp sứ thn là bọn Lương [11b] Phùng Thìn trở về.
Mùa hạ, tháng 5, mưa đá lớn ở sách Vạn Li, cục đá to bng quả dưa, lúa má đu bị gãy nát.
Năm y, thưởng công đánh trận Đưng Nang. Lấy Hoàng Đình Ái làm thiếu uý, Nguyễn Hữu Liêu làm Tây quân đô đc phủ chưởng phụ sự, Trịnh Đ3 làm Nam quân đô đc phủ tả đô đốc, Hùng quận công (không rõ tên) làm thái bảo, bọn Trịnh Đồng, Trịnh Ninh đều làm đô đốc thiêm sự, Diễn qun công (không rõ tên) làm Tây quân đô đốc phủ hữu đô đc, Ngô Cảnh Hựu làm Bắc quân đô đc phủ hữu đô đốc, còn những người khác đều được phong theo thứ bậc khác nhau.
[12a] Tháng 6, tướng Mạc là Phù Nghĩa hầu Nguyễn Đình Luân về theo, ban tước Trà qun công.
Bấy giờ, ở xã Đông Hồi, huyện Huỳnh Lưu, Nghệ An có tảng đá trắng to, không biết ở đâu tới, từ dưới nước ở cửa biển nhy lên đt phẳng, cách mép nước 15 trưng thì dừng lại. Người địa phương cho là linh dị, lập đn thờ.

1 Mạc Đôn Nhượng: Là con út của Mạc Đăng Dung.
2 Núi Đưng Nang: theo CMCB24 thì núi nàyở thôn Nang, xã Hưng Lễ, huyện Quảng Xương, Thanh Hoá.
3
Trịnh Đ: là con Trịnh Kiểm.
625                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
Tháng 9, Vịnh Kiều bá Hoàng Sĩ Khải và Lang trung Bùi Tòng Củ của họ Mạc bàn cp cho Thái bảo trước là Gia quốc công Nguyễn Thám 50 mu ruộng thế nghiệp.
Các nho thần ở Giang Đông dâng biểu lên họ Mc, nói xin bỏ cưng thn để tôn họ vua, đại ý nói: Hiện nay, đương lúc cứu vớt kẻ lìa tan, bề tôi nghĩa phải thun theo1, sớm tối không rời chỗ vua ở, trước sau không phụ ơn chúa. Thế mà Nguyễn Quyện kia, là nanh nọc gian tà, là tiểu nhân phn phúc, [12b] không hổ thẹn việc cha hn phn quc, li nịnh hót vua ta khi về triều.
Kế sách hiện nay, cố nhiên phi võ gắn với văn, tướng võ cùng mưu với tướng văn, miền bc thì cùng bàn mưu lược với Kế Khê hu, phía tây thì chung tâm sức với Ngạn qun công. Dựa vào hai, ba bậc hào kiệt y, đồng lòng nhất trí, giữ lấy giang sơn hiểm yếu này mà cùng hưởng phú quý, thì sẽ thy kỷ cương triều đình lại đưc chỉnh đn, ngôi báu đế vương lại được vững vàng, con cháu nhà vua trăm đời nối truyền mãi mãi.
Quý Mùi, [Quang Hưng] năm thứ 6 [1583], (Mạc Diên Thành năm thứ 6; Minh Vn Lịch năm thứ 11). Thi Hi các sĩ nhân trong nước. Cho bọn Nguyễn Nhân Chiêm 3 người đỗ tiến sĩ xut thân; Lê Văn Thông đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
Họ Mạc mở khoa thi Hội. Cho Nguyễn Tun Ngn đỗ tiến sĩ cp đệ, bọn Đào Tông 3 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Nguyễn Đức Mậu 14 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
[13a] Tháng 6, ngày 18, Thái phó Nghĩa quận công Đặng Hun chết, tặng Nam quân đô đc phủ tả đô đc chưởng phụ sự, Thái uý Nghĩa quc công.
Tháng 7, quân Mạc xâm phm Thanh Hoa, cướp bóc các huyện ven sông. Tiết chế Trịnh Tùng sai quân đánh lớn ở ngoài cửa biển, đui quân Mc đi rồi trở về. Từ đó, quân Mạc không dám vào xâm pạm nữa, nhân dân các xứ Thanh Hoa và Nghệ An mới đưc nghỉ ngơi.
Bấy giờ Trn Yên nước Ai Lao cng hiến sn vật địa phương.
Tháng 10, Tiết chế Trịnh Tùng đốc suất đại quân ra vùng Sơn Nam Hạ lộ, đánh dẹp các huyện Yên Mô, Yên Khang2, thu lấy thóc lúa ri rút về.
ng Đông đo của họ Mạc là Kỳ qun công Nguyễn Viết Kính theo về triều đình, đưc ban tước Đông quận công.
[13b] Giáp Thân, [Quang Hưng] năm thứ 7 [1584], (Mc Diên Thành năm thứ 7; Minh Vạn Lịch năm thứ 12). Tháng giêng, Phủ tiết chế lại xut quân đánh dẹp các huyện Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang, lại tiến quân đi tun huyện Phụng Hoá, phủ Thiên Quan3. Thế qun công Ngô Cảnh Hựu vì để quân nửa đường về trước nên bị biếm 2 tư.
Tháng 9, ngày mồng 4, Trịnh Cối chết ở bên Mạc. Trước đây, Cối đầu hàng họ Mc, được ban tước Trung Lương hầu, sau đưc thăng lên Trung quận công. Đến đây chết. Họ Mc sai người đến điếu tế; lại sai quân đưa linh cữu, cho người nhà, mẹ và vợ con đem về cn. Tiết chế Trịnh Tùng cũng sai người đón tiếp linh cữu về quàn ở bên hữu núi Quân Yên, huyện Yên Định, đt lễ cúng tế, dâng biểu tâu vua tha tội cho Cối, tng thái phó Trung quốc công, cho con cái là bọn Trịnh Sâm để tang.
[14a] Họ Mc lấy Lại bộ thượng thư chưng bộ sự kiêm Đông các đại hc sĩ tri kinh diên sư tham dự triều chính Thái bảo Luân quận công Giáp Trừng làm Sách quc công; viên trung quan người huyện Yên Lạc là Hào quc công làm An quốc công, tướng Tây đạo là Ngạn quận công Mạc Ngc Liễn làm Đà quốc công, tướng Nam đạo là Thạch qun công Nguyễn Quyện làm Thường quốc công, Trung Nghĩa Miện qun công (không rõ tên) làm Tây quân đô đốc phủ tả đô đc Hoàng qun công.

1 Nguyên văn: "Thời phương chửng hoán, nghĩa hiệu tòng khôn". Hn Khôn là hai quẻ của Kinh Dịch, đại ý nói: Hiện nay, đương lúc ly tán gian nguy như điềm quẻ Hoán, phải làm theo phương sách mềm dẻo, hoà thuận của quẻ Khôn.
2 Yên Mô, Yên Khang: tên hai huyện, đều thuộc tỉnh Ninh Bình.
3
Phủ Thiên Quan: sau là huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.
626                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
Tháng 10, vùng Thuỵ Nguyên và Yên Định ở Thanh Hoa động đt hơn 50 dm.
ng Nam đạo của họ Mạc là Nam Dương hu Trần (không rõ tên) theo về, được ban tước Bàn quận công.
Họ Mạc sai bọn Nguyễn Doãn Khâm, Nguyễn Vĩnh Kỳ, Đặng Hiển, Nguyễn Năng Nhuận, Vũ Sư Tích, Nguyễn Lễ sang tuế cống nhà Minh.
[14b] Ất Dậu, [Quang Hưng] năm thứ 8 [1585], (Mạc Diên Thành năm thứ 8; Minh Vạn Lịch năm thứ 13).
Tháng giêng, Tiết chế Trịnh Tùng1 tự đc suất đi quân đi dẹp vùng biên giới phía tây, từ đường Thiên Quan, đánh phá các huyện Mỹ Lương, Thạch Thất, Yên Sơn2. Quân tiến tới núi Sài Sơn3 thì rút về, để lại viên tỳ tướng là Chiêu qun công ở chợ Qung Xá4. Quân Mc đui theo kịp, Chiêu qun công chết tại trận, quân Mạc lấy được 1 con voi.
Tháng 2, Tiết chế Trịnh Tùng bàn đem quân về.
Tháng 6, họ Mc lại định vào ở trong thành Thăng Long. Bèn bàn sửa đp thành trì, làm nhiều công việc xây dựng, nung ngói gạch, một năm thì xong. Lấy năm sau làm Đoan Thái năm thứ 1.
Tháng 10, ngày 12, Sách quc công của họ Mạc là Giáp Trừng trí sĩ.
Tháng 12, Phủ tiết chế đem quân ra vùng Sơn Nam, đánh dẹp miền Gia Viễn, Phụng Hoá rồi rút về.
[15a] Sách quốc công của họ Mạc là Giáp Trừng chết.
Bính Tuất, [Quang Hưng] năm thứ 9 [1586], (Mạc Đoan Thái năm thứ 1; Minh Vn Lịch năm thứ 14). Mùa xuân, họ Mạc mở khoa thi Hi. Cho Nguyễn Giáo Phương đỗ tiến sĩ cp đệ, bn Phạm Minh Nghĩa 3 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Nguyễn Văn To 17 người đỗ đồng tiến sĩ xut thân.
Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 5, lụt lớn.
Tháng 6, họ Mc sp đặt xa giá dời vào thành Thăng Long, ở ti chính điện, nhn lễ chầu mừng của các quan. Lễ xong, thăng bọn Mc Ngc Liễn và Nguyễn Quyện đều làm thái bảo, Hoằng qun công làm Nam quân đô đc phủ tả đô đốc.
Ngày 25, vùng Thanh Hoa trời không mưa giónước sông Mã bỗng dâng [15b] cao, thành Tây Đô bị ngập, ở ngoài sông, nước xoáy, chy xiết như bn, cây cối lấp cả sông, các nhà ven sông phần nhiều bị trôi ra biển.
Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 2, lụt lớn. Đêm ngày Quý Mão, mặt trăng có qung đ, bóng sáng lờ mờ, sắc như phun máu. Các nhà chiêm tinh đoán là tai biến ấy ứng vào điềm bậc phi hậu chết. Ngày 25, lại lụt to. Trong 1 năm, lụt đến 7 lần.
Tháng 8, ngày mng 5, sm đng trái thì. Đi hạn.
Ngày 13, Thái quc phu nhân là Trương Thị Ngọc Lãnh5 chết.

1 Nguyên văn mất bốn chữ " Tiết chế Trịnh Tùng".
2 Thch Thất: tên huyện, thuộc tnh Sơn Tây cũ, nay là tỉnh Hà Tây.
3 Núi Sài Sơn: còn gọi là Chùa Thầy, thuộc huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.
4 Chợ Qung Xá: thuộc huyện Yên Sơn, xưa là huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc huyện Quảng Oai, Hà Tây. CMCB24 ghi là chợ Hoàng Xá.
5 Tức bà phi của Trịnh Kiểm.
627                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
Ngày 17, dinh Yên Trường cháy lớn. Khi ấy, gió to, lửa mnh, cháy lan cả phủ dinh, trại quân, giải vũ, phố xá đến vài nghìn nhà. Mây sắc đỏ che kín mặt trời, khói đen đy trời, từ giờ Ngọ đến giờ Thân lửa mới tt. Bà phi của Tháiơng là Nguyễn Thị Ngọc Bảo bị chết cháy, Tiết chế Trịnh Tùng [16a] ở lánh chỗ khác để tang. Truy tôn là Minh Khang Thái Vương Thái Phi.
Ngày 23, Thái bo Hùng qun công chết.
Ngày 28, trong dinh Yên Trường ni cơn lốc lớn đến hai dm, người ngã, nhà tốc, đá bay cát cuộn, gãy cây sụt ngói.
Tháng 9, ngày mng 3, nước to, mưa dm hàng tuần. Ngày mồng 9, lại nước to. Ngày 18, mưa dứt. Năm ấy vùng Thanh Hoa mất mùa.
Tháng 10, trời lại mưa dầm suốt hơn hai tuần không ngớt, núi ở các huyện sụt lở lung tung.
Đinh Hi, [Quang Hưng] năm thứ 10 [1587], (Mc Đoan Thái năm thứ 2 - Minh Vn Lịch năm thứ 15). Tháng giêng, họ Mc sai sửa chữa tầng ngoài thành Thăng Long và sửa sang các đường ph.
[16a] Tháng 2, họ Mạc hạ lệnh cho các xứ trong nước phi đắp luỹ đt và trồng tre, trên từ sông Hát, xuống tới sông Hoa Đình huyện Sơn Minh, kéo dài đến vài trăm dặm để đề phòng quân đến.
Tháng 3, ngày 11, giờ Thìn, trời bỗng nhiên có tiếng kêu. Bấy giờ núi Trác Bút1 ở huyện Vĩnh Phúc có tảng đá lớn cao 1 trượng, chân đá ăn sâu vào lòng đất đến hơn 4 thước, vô cớ trồi lên trên mặt đt ri dời đến chỗ khác.
Tháng ấy, Trường Xá, huyện Yên Định, nước trong giếng tự nhiên sôi lên, đục ngu đến 3 hôm, sau lại trong như cũ. Những nhà chiêm tinh đoán rằng ứng vào điềm chết một viên đi tướng.
Tháng 5, Thái phó Vệ Dương hầu Trịnh Bách có ti bị xử giảo.
Trưc đây, Bách cùng dòng họ với Trịnh Tùng, từng cùng với Lê Cp Đệ bày mưu định hại Trịnh Tùng. Mưu bị tiết lộ, Cp Đệ bị giết [17a] Bách được tha ti nhưng vẫn có lòng bất mãn, nuôi ngầm những người yêu thut, phù thuỷ, lại mưu chôn mộ cha vào đất cm. Việc phát giác, bị xử giảo.
Tháng 7, nước sông dâng cao.
Tháng 8, ngày rm Nhâm Thân, đêm có nguyệt thực. Tháng 9, ngày mng một Đinh Hợi, nhật thực.
Hạ lệnh cho xứ đu ngun các huyện lấy 500 cây gỗ làm cc, chia cắm ở các cửa biển để phòng thuyền giặc vào cưp và làm kế chng giữ.
Tháng 10, ngày Ất Hợi, cầu vng đỏ xut hiện ở phương khôn2. Tháng y, Tiết chế Trịnh Tùng đem quân đánh phá các huyện Gia Viễn, Yên Hoá, Phụng Hoá thuộc các phủ Trường Yên, Thiên Quan, đánh dẹp đến chợ Rịa3, sai làm cu phao, cả phá dinh của Tân qun công (không rõ tên) của họ Mạc.
[17b] Tháng 11, quân ra phía tây nam, đến huyện Mỹ Lương. Họ Mc sai tưng Tây đạo là Mc Ngọc Liễn đem quân ra huyện Ninh Sơn4 để đánh vào phía t; lại sai tướng Nam đo là Nguyễn Quyện đem quân ra huyện Chương Đức, vưt sông Do Lễ5 đánh vào bên hữu. Khi Quyện đến sông Do Lễ thì chia quân phục sẵn ở con đường nhỏ dưới chân núi để đợi quan quân tới, định ct đứt con đường chở lương của cánh quân sau. Kế sách đã định như thế, nhưng Tiết chế Trịnh Tùng biết được, bèn chia quân

1 Núi Trác Bút: thuộc xã Đa Bút, huyện Vĩnh Lộc, tnh Thanh Hoá. Huyện Vĩnh Lộc thời ấy gọi là huyện Vĩnh Phúc.
2 Phương khôn tức phương tây nam.

3 Chợ Rịa: ở gần huyện lỵ Nho Quan, tnh Ninh Bình.
4 Ninh Sơn: hay Yên Sơn, tức là huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây cũ, nay thuộc tnh Hà Tây. 5 Sông Do L: ở xã Do Lễ, huyện Chương Đc, nay thuộc huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây.
628                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
để lại cho bọn Lân quận công Hà Thọ Lc, Thế quận công Ngô Cảnh Hựu bảo vệ quân chở lương phía sau. Trước hết, sai Đại tướng Vĩnh quc công Hoàng Đình Ái đem quân ngầm rút nhanh về để giữ Thanh Hoa, lại sai Thái phó Dương quốc công Nguyễn Hữu Lưu, Thái bảo Trịnh Đỗ cùng bọn thiếu bảo Trịnh Đồng, Trịnh Ninh mỗi người đều đem quân ra đường phía tả để cm cự với quân của Mc Ngọc Liễn, [18a] chng giữ để chia cắt thế địch. Tiết chế Trịnh Tùng đc suất đại quân ra đường phía hữu để tiến đánh Nguyễn Quyện. Quân hai bên giao chiến, quan quân thắng lớn. Quyện tự liệu không thể chống ni, liền rút quân mà chạy, quân mai phục cũng vỡ chy, tranh nhau qua sông, bị chết đuối rất nhiều. Quan quân chém đưc vài trăm thủ cp giặc, truy đui bọn rút chạy đến nửa ngày đường mới dừng quân. Từ đó, Quyện sợ uy thế quan quân, nếu có gp, thì lánh cho xa, không dám giao chiến nữa. Ngc Liễn sai người dò biết quân Quyện đã thua, cũng lui quân chạy dài. Hôm sau, quan quân từ Đốn Thuỷ, tiến đóng ở Hoàng Sơn, lại tiến đánh Yên Sơn, và Thạch Thất1. Quân đi đến đâu là đánh tan đó, lấy được của ci, trâu bò gia súc nhiều không kể xiết.
Tháng 12, tiết chế Trịnh Tùng bàn với các tướng thu quân và hạ lệnh rút về. Quân đi theo [18b] đường cũ, qua Thiên Quan trở về. Quân đi đến đâu, không mảy may xâm phm của dân.
Họ Mạc đi niên hiệu Đoan Thái thành Hưng Trị năm thứ 1.
Mậu Tý, [Quang Hưng] năm thứ 11 [1588], (Mc Hưng Trị năm thứ 1; Minh Vn Lịch năm thứ 16). Tháng 2, họ Mc thấy quan quân mỗi ngày một mạnh, liền bàn định kế đánh giữ. Hạ lệnh cho quân dân các huyện trong bn trn đp thêm ba lớp luỹ ngoài thành Đại La ở Thăng Long, bắt đầu từ phường Nhật Chiều2 vượt qua Hồ Tây, qua cầu Dừa3 đến cầu Dền4 sut đến Thanh Trì, giáp phía tây bắc sông Nhị Hà, cao hơn thành Thăng Long đến vài trượng, rộng 25 trượng, đào 3 lớp hào, đều trồng tre, dài ti mấy mươi dặm để bọc lấy phía ngoài thành.
Trưc đây, Đông qun công của họ Mc là Phạm Viết Kính người huyện Tứ Kỳ theo v triều đình, được cp cho [19a] binh dân tng Châu Xuyết, huyện Hoằng Hoá và cho theo quân đi đánh giặc. Viết Kính cai trị rất nghiêm khắc, dân đều sợ hãi, nhiều người ca thán. Dân địa phương dâng biểu tố cáo.
Tháng 4, Phủ tiết chế đem quân ra đánh các huyện Yên Mô, Yên Khang, dẹp yên dân miền ấy rồi về.
Tháng 5, tng đá lớn ở núi Trác Bút lở, dài đến vài trượng.
Tháng 6, có con chim lớn cao 4 thước 5 tc, lông trắng, mỏ đ, chân đỏ sa xung địa phn làng Phù Chn, huyện Thuỵ Nguyên.
Ngày 11 tháng ấy, sao Thái Bạch mọc ngang trời, mặt tri, mặt trăng có hai qung, suốt tháng không tan, sương mù xuống nhiều, đi hạn, lúa má chết khô, nhân dân xiêu tán.
Tháng 11, Tiết chế Trịnh Tùng bàn đem đi binh ra ải Phố Cát5, đánh các huyện của phủ Trường Yên và Thiên Quan. Quân tới Yên Mô, Yên Khang, thu được rt nhiều trâu bò, gia súc và của ci của giặc [19b] ri vượt sông Chính Đại6, đến luỹ tri Dương Vũ7 đóng quân. Sau một tuần, Phủ tiết chế giả cách rút quân về, để lại kỳ binh và voi ngựa mai phục ở sau dinh rồi đt doanh tri để dụ giặc. Quân giặc quả nhiên bỏ không trại sách, tranh nhau lên trước đui đánh. Quân phục bỗng nổi dậy đánh úp, chém được mấy trăm thủ cp giặc. Tướng giặc là bn Tân qun công, Quỳnh qun công (đều không rõ tên) chỉ thoát

1 Quốc Oai và Thạch Thất là hai huyện thuc tỉnh Sơn Tây cũ.
2 Nht Chiều: nay là xã Nhật Tân, ngoại thành Hà Nội.
3 Theo CMCB 24, thì cầu Dừa thuộc phường Thnh Quang ở Hà Nội.
4 Cu Dền: nay là ô Cầu Dền, gần Bạch Mai, Hà Ni.
5 Cương mục chép là cửa ải Trường Cát, Phố Cát nay thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá (CMCB 24, 20).
6 Sông Chính Đi: theo Cương mục thì sông Chính Đại ở trang Chính Đại, huyện Tống Sơn, Thanh Hoa (CMCB 24, 20).
7
Tri Dương Vũ: thuộc xã Dương Vũ, huyện Yên Khánh.
629                                               Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
được thân mình. Tiết chế Trịnh Tùng thu quân rút về. Đến núi Tam Điệp1 hạ lệnh cho các quân đi lấy cây gỗ lim lớn, dài 30 thước, cứ 300 người làm 1 tp, đến kỳ đem cắm ở cửa biển Linh Trường. Những cc gỗ y đều dùng dây st khoá lại.
Tháng 12, ngày 28, nước sông Vãn Hà2 ở Thuỵ Nguyên tự nhiên sắc đỏ như máu chy đến hơn 1 dặm.
[20a] Kỷ Sửu, [Quang Hưng] năm thứ 12 [1589], (Mc Hưng Trị năm thứ 2; Minh Vn Lịch năm thứ 17). Tháng giêng, ngày mồng 2, có con vượn lớn xut hiện ở huyện Vĩnh Phúc, người thôn Bạch Thạch bt được.
Tháng ấy, ngày 14, sao Huỳnh Hoc phm vào sao Cang.
Ngày 15, mặt trăng phạm vào sao Tuế. Đại hạn. Gạo kém. Dân nhiều người xiêu tán. Tháng 5, ngày 15, có khí mây thành qung trên mặt trời, như hình con trâu phục. Tháng 6, ngày mng 7, giờ Dậu, rt nhiều sao băng
Tháng 7, ngày 16, giờ Sửu, có nguyệt thực ở phương bắc trăng bị ăn quá nửa rồi lại tròn. Nước lụt.
Mùa đông, Tiết chế Trịnh Tùng đích thân đốc suất đại quân đi đánh dẹp các huyện Yên Khang.
Thi Hội các cử nhân trong nước. Cho bọn Lê Nhữ Bt, Lương Trí đỗ tiến sĩ xut thân; bọn Lương Khiêm [20b] Hanh, Lê Đình Túc đỗ đồng tiến sĩ xut thân.
Họ Mạc mở khoa thi Hội. Cho bọn Phạm Y Toàn 17 người đỗ đng tiến sĩ xut thân.
Bấy giờ, họ Mc lại bàn cử binh, sai Mc Đôn Nhượng thống suất vệ sĩ và quân bốn trn, định ngày cùng tiến đến địa phn Yên Mô, hẹn giao chiến với quan quân. Tiết chế Trịnh Tùng bàn với các tướng rằng: nay họ Mc đem hết đại binh tới, chỉ ct giao chiến với ta để quyết mt trn sống mái. Quân địch nhiều, quân ta ít, thế mnh yếu khác nhau. Nhưng ta đã ở vào đất hiểm, hn giặc không làm gì được. Binh pháp có nói: một người giữ chỗ hiểm, ngàn người không địch ni, là thế đó. Ta nên giả cách rút quân, để dt chúng vào chỗ hiểm. Nó tt khinh ta, đem hết quân đuổi theo. Ta dùng trọng binh đánh úp, t sẽ phá đưc [21a]. Canh ba đêm ấy, Tiết chế Trịnh Tùng sai Nguyễn Hữu Liêu đem 1 vạn 5 nghìn quân tinh nhuệ và 200 cỗ khinh kỵ, đi ngầm trong đêm tối tới vùng chân núi tìm các hang đng, khe suối và những nơi có lau sy mà mai phục để đợi giặc, hn nghe thy ba tiếng súng lệnh thì quân phục ni dậy hết. Hữu Liêu đem quân đi ri, lại sai Trịnh Đ, Trịnh Đồng, Trịnh Ninh đem quân chn hậu. Hạ lệnh các quân cứ theo như trn đồ mà lần lượt rút lui. Nếu thy giặc đuổi tới, thì vừa đánh vừa chạy. Đến chỗ quân mai phục, nghe thấy ba tiếng súng lệnh thì chuyển quân hậu thành quân tiền, mỗi cánh quân chia đi ngũ, cờ xí ra hai bên t, hữu, theo đúng thứ tự trong trn đồ. Các tướng nhận lệnh xong, đều trở về doanh tri của mình, chỉnh đn binh tướng để đi giặc. Li sai Ngô Cảnh Hựu đem quân chở lương thực, thu nht rút trước vào núi Tam Điệp đtỏ cho giặc biết là lui quân về. Lại sai đại dinh của Trung quân, chuyển hu đội [21b] thành tiền đội, lần lượt rút về, đến núi Tam Điệp thì đóng quân lại. Tiết chế Trịnh Tùng cũng đốc sut đại quân lên đưng. Hôm ấy, tướng Mc sai người lên đỉnh núi quan sát, thấy quan quân kéo về, cười nói rng: "Nó thấy quân ta tới, tự biết là ít không địch ni nhiều, đã rút về trước, tất để lại Hoàng Đình Ái chặn hu. Các tướng sĩ của ta, người nào có thể dấn mình ra sức đuổi kịp quân địch, nếu bt sống tướng giặc hoặc bắt được voi là công hạng nhất, khi về triều ta sẽ tâu cho thăng trật và trọng thưởng. Tưng Mạc tự cy quân nhiều, hăng hái tranh nhau tiến trưc, không nghĩ gì đến người theo sau, đua nhau đui đến chỗ hiểm ở núi Tam Điệp. Nghe thấy ba tiếng súng lệnh, phục binh nhất tề nổi dy. Tiết chế Trịnh Tùng tung đi quân ra, bốn mặt hăng hái đánh vào, đúng theo hiệu lệnh, hàng quân không sai lạc. Chém được hơn 1000 thủ cấp, bắt sống đưc hơn 600 người. Quân giặc tan vỡ

1 Núi Tam Điệp: tức là đèo Ba Đội giữa Thanh Hoá và tỉnh Ninh Bình, trên đường quốc lộ số 1.
2
Sông Vãn Hà: sông thuộc xã Vãn Hà, ngay ở lỵ sở phủ Thiệu Hoá trước.
630                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
[22a] chy dài. Các tưng Mc run sợ, đều thu nhặt tàn binh trốn về Kinh p. Quan quân toàn thắng, đem quân về Thanh Hoa.
Tháng 12, Tiết chế Trịnh Tùng sai các tưng đem hơn 600 quân giặc bị bắt tới np, sai cởi trói, vỗ về yên ủi cấp cho cơm áo rồi thả hết cho về quê quán để tỏ đức hiếu sinh. Họ hàng của quân lính bị bắt nghe thy thế, đều đi công đức như trời đất, cm ơn sâu như cha mẹ.
Canh Dần, [Quang Hưng] năm thứ 13 [1590], (Mạc Hưng Trị năm thứ 3; Minh Vạn Lịch năm thứ 18). Bấy giờ, nhà Trung nghĩa tướng Hong qun công của họ Mạc chứa giấu phu nhân của Đường An Vương Mc Kính Chỉ. Việc bị phát giác, Hong quận công và phu nhân đều bị giết.
[22b] Tháng 7, ngày mng 1, nht thực.
Sao Thái Bạch phm vào phía sau mặt trăng chỉ cách độ mt ngón tay. Năm ấy, trm cướp rt nhiều.
Tân Mão, [Quang Hưng] năm thứ 14 [1591], (Họ Mạc đi niên hiệu Hưng Trị thành Hồng Ninh năm thứ 1; Minh Vn Lịch năm thứ 19). Tháng 3, sao Chi vận hành theo hưng tây bc. Tháng 3 nhun, ngày 13, cu vồng đỏ vắt sut trời. Mặt tri có hai qung, khí trắng lồng nhau ở ngoài qung.
Tháng 5, ngày rm Bính Tuất, có nguyệt thực về phương tốn1, mt trăng bị ăn gn hết, sau một giờ lại tròn.
Tháng 12, Tiết chế Trịnh Tùng lại bàn ra quân. Bèn sai bọn Diễn qun công Trịnh Văn Hải, Thái quận công Nguyễn Tht Lý đem quân thuỷ, bộ đi trn giữ những nơi hiểm yếu ở các cửa biển, Thọ qun công Lê Hoà kiêm coi võ sĩ trong ngoài bốn vệ theo hu canh [23a] giữ ngự dinh. Đến kỳ tiến quân,điều đng sai khiến các quân, chia thành 5 đi, cùng một lúc tiến phát. Đi thứ nht là dinh tả khu, bọn Thái phó Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu và Kỳ quận công Trịnh Ninh đem quân tinh nhuệ cùng tướng sĩ các dinh cơ Trung nghĩa, gm 1 vn người làm tiên phong đi trước. Đội thứ hai là dinh hữu khu gồm bọn Thái uý Vinh quận công Hoàng Đình Ái, Vĩnh qun công Trịnh Đồng và voi ngựa cùng 1 vạn quân. Đội thứ ba là dinh tiền khu gồm Thái bo Ngn quận công Trịnh Đỗ và 1 vn giáp binh, voi ngựa. Đội thứ tư là đại dinh trung khu, Tiết chế Trịnh Tùng đích thân đốc sut 2 vn binh mã của Trung quân. Đội thứ năm gm bọn Lân qun công Hà Thọ Lc và Thế qun công Ngô Cảnh Hựu cùng đc suất quân chở lương làm hu quân. Không chia thời khc, quân từ Tây Đô đi ra theo đường huyện Quảng Bình2, qua phủ Thiên quan, đào núi, mở đường, [23b] lun cây xuyên rừng, vượt sông chui hang, đi gp hơn 10 ngày, đến núi Mã Yên3 đầu địa giới Sơn Tây thì đóng quân lại. Hiệu lệnh rất rõ ràng, quân sĩ đều vâng mệnh, chỉnh đn đội ngũ. Ngày hôm sau, qua núi Mường Động đất Thanh Xuyên4. Hạ lệnh cho các quân sau khi thu lương go thì đến Ma Nghĩa5. Quân đi đến đâu, giặc đều như cỏ bị gió lướt, không đến mười ngày đã dẹp yên các huyện Yên Sơn, Thạch Thất, Phúc Lộc6, Tân Phong7, rồi đóng dinh ở Tốt Lâm8.
Ngày Nhâm Tý 21, ban đêm, mt trăng phm vào sao Tuế. By giờ, họ Mạc bàn cử hết đại binh, thúc gi binh mã 4 trấn9, 4 vệ1, 5 phủ2 quân, được độ hơn 10 vạn, hẹn đến ngày 16 tháng ấy đến hội

1 Phương tốn: tức phương đông nam.
2 Huyện Qung Bình: sau đổi thành Quảng Địa, rồi Quảng Tế. Nay là phần tây bắc của huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá.
3
Núi Mã Yên: thuộc huyện Yên Sơn, sau là huyện Quc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc huyện Quảng Oai, tỉnh Hà Tây.

4 Thanh Xuyên: tên huyện, tương đương với hai huyện Thanh Sơn, Thanh Thuỷ thuộc tỉnh Vĩnh Phú.
5
Ma Nghĩa: tên huyện, sau là huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây cũ, nay là Hà Tây.

6 Phúc Lc: sau là huyện Phúc Thọ.
7 Tân Phong: sau là huyện Tiên Phong, nay thuộc huyện Quảng Oai. Các huyện Yên Sơn (sau là Quốc Oai), Thạch Thất, Phúc Lộc, Tân Phong đều thuộc tnh Sơn Tây cũ, nay là Hà Tây.
8 Tốt Lâm: chưa rõ ở đâu.
9 Bốn trấn là Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương và Sơn Tây.
631                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
quân Hiệp Thượng, Hiệp H3 để quyết chiến. Sai Mc Ngọc Liễn đốc suất các tướng sĩ binh mã Tây đo; Nguyễn Quyện đốc suất tưng sĩ binh mã Nam đo, bn Ngạn qun công, Thuỷ [24a] quận công chỉ huy binh mã Đông đạo; bọn Đương quận công, Xuyên quận công chỉ huy binh mã Bắc đạo; bọn Khuông Định công4, Tân qun công chỉ huy binh mã 4 vệ. Mc Mậu Hp đích thân đc sut binh mã của chính dinh; hậu đội thì trong có các tông tht họ Mc và các tướng túc vệ Đông đo đi sau tiếp chiến.
Ngày 27, chia đường cùng tiến. Đến địa phn xã Phấn Thượng5, hai bên đi trn với nhau, dàn bày binh mã. Họ Mạc sai bn Khuông Định công và Tân qun công đốc thúc binh mã bốn vệ làm tiền đội đi tiên phong, dinh tướng Tây đo làm binh mã cánh hữu, dinh tướng Nam đạo làm binh mã cánh tả; dinh tướng hai đạo Đông và Bắc làm binh mã hậu đội. Bốn đội quân khua chuông đánh trống nhất tề tiến lên. Mc Mậu Hợp đích thân đc chiến.
Tiết chế Trịnh Tùng nghe tin, ngay ngày hômy chia quân, sai tướng sĩ dinh hữu khu [24b] tiến lên khiêu chiến. Li chọn 400 quân thiết kỵ xông lên trợ chiến. Hạ lệnh cho các dinh cơ phải theo đúng sự chỉ huy. Quân hai bên đón đánh nhau giáp lá cà suốt từ giờ Mão đến giờ Tỵ6, nhuệ khí tăng bội phần. Tiết chế Trịnh Tùng cầm cờ chỉ huy, ba quân theo lệnh, cố sức đánh, chém đưc Khuông Định công và Tân qun công ti trn. Họ Mạc thy thế quân không địch ni, liền hạ lệnh án binh bất động. Giờ Thân7 Tiết chế Trịnh Tùng đích thân đốc chiến, chỉ huy ba quân, quân bên tđánh vào cánh tả của giặc, quân bên hữu đánh vào cánh hữu, rt có kỷ luật. Tướng sĩ hăng hái, gươm giáo rợp trời, đng thanh gắng sức, thề phá tan giặc. Thế ri bắn ba phát súng lệnh, quan quân không ai không mt người địch trăm người, thế như chẻ tre, truy đui giặc chạy dài. Quân Mc kinh hoàng, cánh quân tả không kịp trông cánh hữu, quân sau không kịp nhìn quân trước, binh lính tuy đông nhưng cờ xí lộn xộn, hàng [25a] ngũ đã ri lon, quan quân nhân thế đánh tan. Các quân thừa thắng đuổi dài đến Giang Cao, chém đưc hơn 1 vạn thủ cấp, máu chy khp đồng, thây chết thành núi, cướp đưc khí giới và ngựa nhiều không kể xiết. Mạc Mậu Hợp sợ đến vỡ mt, xuống thuyền vượt sông mà chạy. Tàn quân tranh nhau xuống thuyền, người trong thuyền sợ thuyền đắm, lấy gươm cht đứt tay rơi xung sông chết đến quá nửa, còn lại thì đứa nào đứa ny đều chạy trn. Duy có tướng Nam đạo là Nguyễn Quyện lánh xa nên được an toàn. Mạc Mậu Hp trn về Kinh ấp. Gp ngày gn tối, Tiết chế Trịnh Tùng đóng quân lại ở Hiểm Sơn.
Ngày 30, Tiết chế Trịnh Tùng đc sut các dinh tiến quân đến chợ Hoàng Xá, đóng lại 1 tháng, hạ lệnh cho quân các dinh vượt sông Cù8 phá huỷ hào luỹ của giặc, san thành đất bng. Chiều hôm y, Tiết chế Trịnh Tùng bàn rằng: Nên nhân cái uy thế sấm sét không kịp bịt tai này [25b] mà đánh lấy thì dễ như nht ht ci. Bèn tiến quân, sai Nguyễn Hữu Liêu đem 5000 quân tinh nhuệ và voi khoẻ cùng ngựa bc sắt, đến gi Dn, thng tiến đến đóng ở cầu Cao tại góc tây bc thành Thăng Long, phóng la hiệu, bắn liền by phát, thiêu đốt nhà cửa, khói lửa khắp trời. Trong thành sợ hãi rối lon. Mc Mu Hợp sợ hãi cung quít, bỏ thành chy trn. Đêm hôm y, già trẻ gái trai thành trong thành ngoài, tranh nhau xung thuyền qua sông, thuyền đm, chết đuối đến hơn 100 người. Đến sáng, Hữu Liêu lại thu quân về hành dinh. Gặp ngày tết Nguyên đán, uý lạo tướng sĩ, hn phải thu phục kinh thành. Ba quân vui mừng phấn khởi, đều nguyện báo ơn nước. Bấy giờ, đảng Mạc tuy còn chưa dp hết, nhưng thanh thế quan quân càng ngày càng lừng lẫy.

1 Bốn vệ là Hưng quốc, Chiêu vũ, Cẩm y và Kim ngô.
2 Năm phủ là Trung quân, Đông quân, Tây quân, Nam quân, Bắc quân.
3 Hiệp Thượng, Hiệp Hạ: tên hai xã thuộc huyện Quốc Oai.
4 CMCB 24, 24: chép là Khuông quận công.

5 Phấn Thượng: sau là xã Tảo Thượng, nay là xã Ngọc Tảo, huyện Tùng Thiện, tỉnh Hà Tây.
6 Khoảng từ 6 giờ đến 12 giờ sáng.

7 Khoảng từ 16 giờ đến 18 giờ.
8 Sông Cù: đoạn sông Hát chảy qua xã Cù Sơn.
632                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
Nhâm Thìn, [Quang Hưng] năm thứ 15 [1592], (Mạc Hồng Ninh năm thứ 2; Minh Vn Lịch năm thứ 21). Mùa xuân, ngày mồng 3, Tiết chế Trịnh Tùng [26a] sai quan lập đàn sắm lễ, trai giới làm lễ tế trời đất, Thái Tổ Cao Hoàng Đế và các vị hoàng đế của bn triều, cùng các vị linh thần núi sông, các danh tướng xưa nay trong nước. Khn rằng: "Thn là Trịnh Tùng gượng gánh trọng trách của nước nhà, lạm cm quyền lớn đánh dẹp, vâng mệnh đánh kẻ phản nghịch để cứu dân, nghĩ rng sinh linh xã tắc triều Lê bị kẻ gian thần phn nghịch là họ Mạc giết vua, cướp nước, ti ác rt sâu, ngược dân, di thần, hoạ đầy oán chứa. Để sinh linh phải lầm than đã gần 70 năm, mà nguyên do gây hoạ loạn, há chịu cùng đi trời chung. Xin các thánh hoàng đế tiên triều, soi xét lòng thn, diệt bn giặc phản nghịch cho dân được yên, để khôi phục cõi đất của triều Lê".
[26b] Khấn xong, ngày hôm y, mây mù quang hết, mt trời rực sáng. Tiết chế Trịnh Tùng hi các tướng bàn việc tiến quân và cáo dụ rng: "Cái thế chẻ tre không thể bỏ lỡ. Huống chi, ta vâng mệnh đi đánh kẻ trái phép, vốn để yên dân. Các tướng nên răn cm tưng sĩ, nghiêm ngặt nhc lại ước thúc, chấn chỉnh đi ngũ, hiệu lệnh rõ ràng, tin thực. Quân đi đến đâu, không được mảy may xâm phm của dân, không đưc cướp bóc dân lành, của cải không phải của giặc thì không được lấy bậy. Quân đi có kỷ luật thì giặc dễ phá".
Bèn hạ lệnh cho các dinh nhổ trại tiến đến bờ phía tây sông Ninh Giang1. Quân đi đến đâu, không my may xâm phm của dân, chợ không thay đi quy hàng, mọi người đu yên ổn như cũ, già trẻ, trai gái tranh nhau đem trâu dê, cơm rượu, hương hoa đầy đường, đón tiếp vương sư, hàng phục trước cửa quân mà nói: Trước kia bị sương mù che khuất, ngày nay [27a] được thấy trời xanh, vui khắp trời đất. Rồi đến đóng quân ở Ninh Giang, dựng đồn bày trận, vững như thành st. Bàn hạ lệnh rằng: Tưng sĩ các doanh cơ, phi theo ba điều mà răn cm các quân: 1. Không được tự tiện vào nhà dân lấy củi, hái rau; 2. Không được cướp bóc của ci, chặt phá hoa màu; 3. Không được hiếp dâm đàn bà con gái và giết người vì thù riêng. Nếu ai vi phm thì chém rao cho mọi người biết. Ba quân nghe lệnh, đều nghêm chỉnh đội ngũ, không dám xâm phm. Trăm họ vui theo, đều nói rằng từ đi Tam đo về sau, nay mới lại thấy quân nhân nghĩa như thế. Người theo về đông như đi chợ. Những người có gan dạ có tri thức, đều vui vẻ đến cửa quân để phục vụ.
Ngày mồng 5, Tiết chế Trịnh Tùng đc quân vượt sông, tiến đến chùa Thiên Xuân2. Gần đến cầu Nhân Mục3, Mạc Mậu Hợp sợ quá, bỏ thành Thăng Long vượt sông Nhị Hà đến bến Bồ [27b] Đề, ti Thổ Khi4, để lại các đi tướng chia giữ các cửa trong thành.
Ngày mng 6, tiết chế Trịnh Tùng đốc quân qua sông Tô Lịch đến cu Nhân Mục, đóng quân ở núi Xạ Đôi5. Bèn chia quân bày trận, các đạo cùng tiến, hn ngay ngày hôm y đánh phá thành Thăng Long để lấy công đầu. Bèn sai tướng dinh tả khu là bọn Nguyễn Hữu Liêu và Trịnh Ninh đem 1 vn binh tượng đánh phá đường Cầu Dừa tiến thng đến cửa Tây; tướng dinh hữu khu là bọn Hoàng Đình Ái và Trịnh Đng đem 1 vn 500 binh tượng đánh phá đường Cầu Dền, tiến thẳng đến cửa Nam Giao. Tướng sinh tiền khu là Trịnh Đỗ đem các cơ trung quân và bọn Thuỵ Tráng hầu hợp binh tượng hơn 1 vạn 2000 người đánh phá Cầu Muống tiến thng đến cửa Cu Gỗ6. Chia sai các tướng đã xong, mi người đều nhận lệnh sn sàng tiến phát. Tiết chế Trịnh Tùng đc suất binh [28a] ng đại dinh gồm 2 vn 5000 người làm hậu đội, tiến đến Hồng Mai7 đóng quân. Bèn hạ lệnh rng: Bài binh bố trn đã xong, tất cả cờ

1 Sông Ninh Giang: khúc sông Đáy chảy qua xã Ninh Sơn, gần chùa Trầm.
2
Chùa Thiên Xuân: ở xã Thanh Xuân, huyện Thanh Oai (CMCB 24, 28).

3 Cu Nhân Mục: tức Công Mọc, ở phía tây Hà Nội.
4
Thổ Khối: tên xã, thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.

5 Xạ Đôi: nghĩa là Gò Bắn, khu Giảng Võ, Hà Nội.
6 Cửa Cu Gỗ: ở khoảng phố Cầu Gỗ, quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) ngày nay.
7
Hồng Mai: sau đổi là phường Bạch Mai. Nay là phố Bạch Mai, Hà Nội.
633                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
xí không được giăng by, chiêng trống không đưc đánh càn. Ba quân nghe lệnh đều cuốn cờ im trống, ngồi yên để chờ đi.
Bấy giờ, Mc Mu Hợp tuy đã sang sông, nhưng còn cậy có sông Cái, có chun bị từ trước. Sai tướng Tây đạo Mạc Ngc Liễn đem quân bản đo cố thủ từ cửa Bo Khánh về phía tây đến phường Nht Chiêu; bọn Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên đem quân bốn vệ giữ cửa Cu Dừa, qua cửa Cu Mung đến thng cửa Cu Dền, chia dinh thứ, ngày đêm đóng cửa cố thủ trong thành Đi La để chống giữ. Tướng Nam đạo Nguyễn Quyện đem quân giữ từ Mạc Xá trở về đông, ứng cứu quân các đạo. Quân hai đo Đông và Bc đều thuc quyền Quyện.
Mc Mậu Hợp [28b] tự tay đốc sut thuỷ quân, dàn hơn 100 chiếc thuyền giữ sông Nhị Hà để làm thanh viện. Nguyễn Quyện đem quân đến dinh, đt quân phục ở ngoài cửa Cu Dền để đợi, dàn súng lớn Bách Tử1 và các thứ hoả khí để phòng bị.
Bấy giờ Tiết chế Trịnh Tùng phát ba tiếng súng lệnh, các tướng kéo cờ đánh chiêng gióng trống, đến khi nghe bảy hi tù và thì đội ngũ chỉnh tề, giáo mác sáng quắc, tiến lên đánh phá. Từ giờ Tỵ đến giờ Mùi chưa phân thắng bại. Tiết chế Trịnh Tùng thấy quân hai bên đánh nhau to, người người cùng khoe mnh đua hùng, bắn ngã sĩ tốt, lại thêm sắc tri thảm đm, mây mù lúc đng lúc tan, gió lạnh trời rét, quân lính xô xát, tiếng súng rung trời, trống chiêng dậy đt, bóng cờ kín ni, giáo mác như mây. Tiết chế Trịnh Tùng đốc quân thúc đánh, cm cờ chỉ huy, chỉ tiến không cho lùi, cứ theo trn đồ mà tiến. Quan quân sức bội, khí tăng, tả xung [29a] hữu đột, tranh nhau xông pha tên đn, phá luỹ leo thành, đua nhau lên trước phá cửa luỹ. Bọn Văn Khuê, Bách Niên tự liệu sức không chng nổi, quân tự tan vỡ tháo chy. Mạc Ngc Liễn cũng sợ mt mt bỏ trn. Quan quân thừa thng đui tràn đến tn sông. Phóng lửa đt cung điện và nhà cửa trong thành, khói lửa kín trời. Tiết chế Trịnh Tùng thúc voi ngựa và quân lính đánh phá cửa Cu Dền, thế quân như tự tri xung. Quân Mạc tan vỡ, quân mai phục của Nguyễn Quyện chưa kịp ni dậy, bị chết hết ở ngoài cửa Cầu Dền. Quyện cùng kế, định liều mạng chạy trốn, nhưng tiến, lui đu không còn đưng nào, trong ngoài đu là quan quân mà cửa luỹ lại bị lấp. Con của Quyện là Bảo Trung, Nghĩa Trch và thủ hạ, tinh binh cố sức đánh, đều chết tại trn. Quyện trí cùng lực kiệt, chy về bản dinh, bị quan quân bắt sống đem dâng trước cửa quân. [29b] Tiết chế Trịnh Tùng cởi trói cho Quyện, đãi theo lễ tân khách, tuyên dụ uý lạo, nói tới ân nghĩa nuôi dưỡng của tiên vương, không nỡ giết hại. Quyện thẹn đỏ mt, phục xuống và tự than rằng: "Tướng thua trận không thể nói mạnh được. Trời đã bỏ họ Mc thì người anh hùng cũng khó ra sức". Tiết chế Trịnh Tùng khen câu nói ấy.
Ngày hôm ấy, quân Mc xác chết gối lên nhau, lấp đầy hào rãnh, máu chảy trôi chày. Chém đến hơn mấy nghìn thủ cấp giặc, tướng Mạc bị chết đến my chục viên. Khí giới chất như núi. Cung điện, nhà cửa ở kinh thành tiêu điều sạch không. Mạc Mu Hợp kinh hoàng sợ hãi, thu nht tàn quân giữ sông Cái để cố thủ. Tiết chế Trịnh Tùng đem quân đến bờ sông, gặp khi trời đã về chiều, liền nói rằng: Binh pháp có nói: Giặc cùng chớ đuổi. Bèn thu quân dừng lại đóng doanh trại theo như trn đ.
Ngày 15, hạ lệnh cho các quân san phẳng luỹ đất đắp thành Đại La dài đến mấy ngàn [30a] trượng, phát hết bụi rậm gai góc, cày lấp hào rãnh, phá đến thành đt bằng, không mấy ngày là xong. Đây là mưu của Nguyễn Quyện để làm kế hoãn binh cho họ Mạc.
Bấy giờ quan quân lng lẫy, dân chúng miền tây nam đều thu về. Hễ đánh dẹp đến đâu, đu hàng phục được c. Từ sông Nhị về tây, đu lấy được hết. Từ sông Nhị về đông dân cũng theo gió mà hướng về. Mạc Mậu Hợp từ đấy rt sợ hãi, ăn không nut trôi, nm không yên gối, không dám ngó đến phía tây sông Nhị nữa.
Tháng 3, Tiết chế Trịnh Tùng tiến quân đến huyện Chương Đức, đóng dinh sông Do L2, sai làm cầu phao cho quân qua sông. Lại chia quân đi đánh dẹp các huyện Thanh Trì, Thượng Phúc, Phú Xuyên. Tiết chế Trịnh Tùng đc quân đánh dẹp các huyện Từ Liêm, Đan Phượng, sau đến Phúc Lộc, Tiên

1 Súng lớn Bách T: có lẽ là loại máy bắn đạn ria.
2 Sông Do L: khúc sông Đáy chảy qua xứ Do Lễ, huyện Chương Đức.
634                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
Phong, đánh dẹp [30b] các huyện Ma Nghĩa, Yên Sơn, Thch Thất, rồi về. Tháng y, Tiết chế Trịnh Tùng bàn đem quân về theo đường Ứng Thiên, Thiên Quan, đến cửa khuyết tâu công toàn thng. Vua mừng lắm, bàn thăng thưởng huân tước.
Thi Hi các cử nhân trong nước. Cho Trịnh Cnh Thuỵ và Ngô Trí Hoà đỗ tiến sĩ xut thân; Ngô Trí Tri1 đỗ đng tiến sĩ xuất thân.
Họ Mc mở khoa thi Hội. Cho bọn Phm Hữu Năng 4 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bn Nguyễn Hữu Đức 13 người đỗ đồng tiến sĩ xut thân2.
Tháng 6, ngày 12, giờ Tý, có nhiều sao băng.
Tháng 7, ngày mồng 6, lụt thình lình, nước sông chy tràn, gò đống bị ngp, đo Thanh Hoa lúa má mất mùa.
Ngày 15, lại bị lụt. Dân miền tây nam cũng bị đói kém.
[31a] Tháng 8, ngày Mậu Tý mồng 1, giờ Nhâm Tut, có nhiều sao băng sắc đỏ, dài 5 trượng, sáng như luồng điện, chiếu vào nhà người rồi sa xuống đt; có tiếng kêu như sấm lớn.
Mc Mậu Hợp ngày càng buông tuồng du đãng, tửu sc bừa bãi. Bấy gi người vợ của Sơn qun công Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên có chị rut là bà hậu của Mậu Hợp, thưng ra vào trong cung. Mu Hợp thy có sắc đẹp, trong bụng thích lắm, liền ngầm mưu dụ giết Văn Khuê để cướp lấy vợ ông ta.
Văn Khuê biết chuyện, liền đem quân bản bộ tự đng bỏ về huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên, đóng quân ở đy không ra nữa. Mu Hợp cho gọi hai, ba lần không đưc, bèn sai tướng đem quân đến hỏi tội Khuê (Nguyễn Thị Niên là con gái thứ ba của Nguyễn Quyện).
Tháng 10, Bùi n Khuê một mt lấy quân để chng quân Mc, mt mt sai con3 chạy đến hành dinh Thanh Hoa, vào lạy bm xin theo mệnh đu hàng, quỳ khóc nói: Cha thần là Bùi [31b] Văn Khuê bị họ Mạc ngm sai quân đến bức hi, sai thn thay mặt cha thn đến mạo ti xin theo về triều đình, cúi mình hàng phục xin cu đường sống, ghi xương khc cốt không quên, trọn đời cm phục ân đức. Nay đi đức lớn, xét rõ lòng thành thì xin cho mt lữ tới cứu thân hèn mn. Nếu oan trời rủ đến phương xa thì cha thn xin làm kẻ dn đường, mun chết cũng không dám chi, để báo đáp tc công.
Tiết chế Trịnh Tùng nghe nói cười rng: Văn Khuê về hàng, đó là trời cho ta đưc chóng thành công. Đất đai của bn triều có thể định ngày mà thu phục.
Thế rồi, cùng với các tướng, bàn việc dấy binh, dâng biểu tâu lên vua. Sai Hoàng Đình Ái thống lĩnh tướng sĩ các dinh cơ đi trước cứu Văn Khuê. Khi quân đến xứ Bái, Đính4, huyện Gia Viễn, Văn Khuê thy có quân đến cứu, liền đem quân tử đệ bản bộ 3 nghìn người ra đón tiếp, lạy rp ở trước quân. Đình Ái [32a] lại sain Khuê đem quân bản bộ giữ bến đò Đàm Giang5. Họ Mc biết Văn Khuê đã đu hàng, lại có đi quân đến cứu, liền lui về giữ sông Thiên Phái6.
Ngày 28, Tiết chế Trịnh Tùng đc suất đại quân ra phủ Trường Yên. Văn Khuê đem quân đến chào, khóc và lạy dưới cờ. Tiết chế Trịnh Tùng khen thưởng và uý lạo, ban tước Mỹ quận công, sai đem binh mã thuyền ghe tản bộ đi tiên phong chống nhau với quân Mc. Họ Mạc sai viên tướng người tông tht là Nghĩa quốc công tiết chế quân Nam đạo, hẹn ngày tiến đánh. Khi quân đến bến đò sông Đàm Xá thì Tiết chế Trịnh Tùng sai cơ Tả hữu súng phục quân ở ven sông để bắn giết. Li sai các quân làm cu

1 Ngô Trí Tri: là con Ngô Trí Hoà, hai cha con đỗ cùng khoa.
2 Bản dịch cũ không có đoạn này.

3 Theo Cương mục thì người con này tên là Bùi Văn Nguyên (CMCB24, 30).
4
Bái và Đính: là tên hai xã thuộc huyện Gia Viễn.

5 Bến đò Đàm Giang: tên cũ là đò Đàm Gia, ở xã Điểm Xá, huyện Gia Viễn.
6 Sông Thiên Phái: khúc sông Đáy làm ranh giới hai huyện Ý Yên và Phong Doanh thuộc tỉnh Nam Định cũ, chảy ra cửa Liêu.
635                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
phao qua bến đò Đàm Giang, nhưng bị sóng gió phá gãy, hai ngày chưa xong, vì thế mới hạ lệnh cho ba quân tranh thủ qua sông Hoàng Xá1 đến núi Kiềm Cổ2 Yên Quyết mà đóng dinh.
[32b] Tướng Nam đạo của Mạc là Nghĩa quốc công đóng quân ở sông Thiên Phái, giữ bến đò Đoan Vĩ3, lệnh thúc binh dân các huyện Đại Yên4, Ý Yên đắp luỹ đt ở bờ sông chống cự, thả chông tre hai bên bờ sông để phòng giữ quan quân qua sông.
Tiết chế Trịnh Tùng sai Văn Khuê ngầm kéo theo thuyn ra cửa sông để đánh ở thượng lưu, sai cơ Tả hữu súng đến bắn ở ven sông để đánh ở hạ lưu, sai voi ngựa, quân lính qua sông đánh mnh vào trung lưu để thu lấy thuyền giặc trên sông.
Nghĩa quc công của họ Mạc trở tay không kịp, bỏ thuyền chạy trốn, quân lính tan vỡ tháo chạy. Quan quân thu được 70 chiếc thuyền và khí giới nhiều không kể xiết. Nghĩa quốc công thu nht tàn quân trở về Kinh p, giữ bãi Tự Nhiên. Quan quân làm cầu phao qua sông, đóng dinh ở huyện Ý Yên, sau tiến quân đến huyện Bình Lục, đóng quân ở cu Lp5. Tướng Mc là Trần Bách Niên [33a] đem quân tới hàng; được ban tước Định quốc công. Bấy giờ các tướng Nam đạo của Mạc đu hàng đến hơn 10 người. Nhân đó, hạ lệnh trong quân không được my may xâm phm của dân, các xóm ngõ ở dân gian nếu không có việc không được tự tiện vào, ai vi phm thì trị theo quân pháp. Do đó, cả xứ Sơn Nam, dân chúng đều yên ổn như cũ, mọi người đem giỏ cơm bu nước ra đón vương sư, trai gái già trẻ không ai không ngưỡng mộ ơn đức.
Tháng 11, ngày mồng 4, Tiết chế Trịnh Tùng tiến quân đến bãi Tinh Thần6 huyện Thanh Oai đóng dinh. Hiểu dụ rng: Nhân dân các xứ tây nam đều là dân của triều ta, từ lâu mắc phải chính lệnh tàn ngược của họ Mc. Từ nay về sau, ta cho các ngươi đu được đổi mới, sửa bỏ tệ cũ. Bọn các ngươi cứ yên làm ăn, không đưc sợ hãi. Quân đi có kỷ luật, một lòng thương dân.
Dân [33b] xiết bao vui mừng, người khoẻ mạnh xin đi theo quân, người già yếu đu ca hát nhảy múa đy đường.
Ngày 14, quân ra cửa sông Hát tiến theo cả hai đường thuỷ, bộ. Tướng Mc là Mạc Ngọc Liễn dàn thuyền để chng cự, cắm cc gỗ ở cửa sông Hát, đp luỹ đất trên bờ sông làm thế hiểm vững. Quan quân tiến đánh phá đưc. Ngc Liễn bỏ thuyền lên bộ chạy đến chân núi Tam Đảo, tướng tốt đều tự bỏ thuyền chạy lên bờ. Quan quân qua sông, lấy đưc thuyền bè khí giới nhiều không kể xiết. Thừa thng đui dài đến tận cửa Nam thành Thăng Long, đóng quânở bến Sa Tho7, lấy được thuyền lớn, thuyền nhỏ hàng nghìn chiếc.
Đêmy, Mậu Hợp trốn chy về huyện Kim Thành, trấn Hi Dương. Tông tộc họ Mạc đều bỏ trn. Các tướng Mạc lũ lượt kéo đến cửa quân đu hàng. Tiết chế Trịnh Tùng truyền lệnh cho các dinh đóng quân ở bến Sa [34a] Tho. Ngăn cm quân sĩ không được cướp bóc, để dân được yên nghiệp. Dân các phủ huyện Thuận An, Tam Đới, Thượng Hng8 phía bắc sông Nhị đều xin đu hàng. Tiết chế Trịnh Tùng

1 Sông Hoàng Xá: thuộc huyện Gia Viễn, giáp huyện Kim Bảng.
2 Kiềm Cổ: tức là Kẽm Trống, trên sông Yên Quyết, một khúc của sông Đáy ở xã Nam Kinh, huyện Thanh Liêm.
3
Bến đò Đoan Vĩ: ở xã Đoan Vĩ, huyện Thanh Liêm, nay thuộc tnh Nam Hà.

4 Huyện Đi Yên: sau là huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định cũ, nay thuộc tỉnh Nam Hà.
5
Cu Lp: nguyên văn là Tắc Kiều.

6 Bãi Tinh Thần: sau là xã Tinh Thần, huyện Thanh Oai, ngày nay thuộc tỉnh Hà Tây.
7 Bến Sa Thảo: nguyên văn là "Sa Thảo tân", có chỗ lại chép là "Thảo tân", có thể hiểu là Bến Cỏ, có thể là vùng ga Hàng Cỏ, Hà Nội ngày nay.
8 Thuận An: nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Tam Đới: gồm tỉnh Vĩnh Yên cũ và huyện Phù Ninh, sau thuộc tỉnh Phú Thọ. Thượng Hng: phần tây bắc tỉnh Hải Dương.
636                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
hạ lệnh vỗ yên. Đảng cướp Thái Nguyên là Liêm quận công (không rõ tên) cũng đem đđảng bản bộ 5000 người về hàng.
Ngày 25, Tiết chế Trịnh Tùng tiến quân đến xứ Hi Dương đuổi dẹp bè lũ họ Mc. Hạ lệnh trong quân rng: Quân đi đến đâu, không được cướp bóc dân lành, hiếp dâm đàn bà con gái. Quân đều nghe lệnh, dân đều vui mừng, mở cửa đón tiếp. Khi đến huyện Phù Dung1, đóng quân ở Liễu Kinh, sai Tả thuỷ dinh là Thái quận công Nguyễn Thất Lý đc suất bn Tiền thuỷ quân Bùi Văn Khuê và Đưng quận công, Trực quận công (đu không rõ tên) cùng với các cơ Ni thuỷ, [34b], 300 chiến thuyền đánh phá huyện Kim Thành. Họ Mạc bỏ thành chạy trn, quân trước, quân sau không tiếp ứng được nhau, bỏ hết cả thuyền bè. Quan quân thu được vàng bc, của cải và đàn bà con gái nhiều không kể xiết. Quân Hải Dương chạy trn tán loạn. Quan quân bắt đưc thái hậu của họ Mạc đem về. Đến bến Bồ Đề, thái hậu họ Mc vì lo bun mà chết.
Mc [Mậu Hợp] lập con là Toàn làm vương, sai coi việc nước, đi niên hiệu là Vũ Anh năm thứ 1, rồi tự làm tướng đc quân chng lại triều đình.
Tháng 12, ngày mng 1, giờ Mão, trong mặt trời có hai điểm đen hình như con qu.
Ngày mng 3, bấy gi Phủ tiết chế chia quân cả phá bọn Mạc Kính Chỉ ở xã Tân Mỹ, huyện Thanh Hà. Chém được đu giặc và thu đưc 50 chiếc thuyền, cùng ngựa và khí [35a] giới nhiều không kể xiết. Các phủ Hạ Hng, Nam Sách, Kinh Môn2, nhà cửa, cung tht bị thiêu huỷ gần hết.
Bấy giờ dư đng của Mạc là Phố qun công, Thuỷ qun công, Miện quận công, Lũng quận công, Hào quận công, Thuỵ quận công, Lương qun công, Nghĩa qun công (đều không rõ tên) và bọn Li bộ thượng thư Phúc quận công ĐUông3, Lễ bộ thượng thư Hng Khê hầu Nhữ Tông, Công bộ thượng thư Đng Hàng4, Li bộ tả thị lang Vĩnh Sơn hầu Ngô Vĩ, Hộ bộ tả thị lang Ngô Tháo5, Đông Các hc sĩ Ngô Cung, Tự khanh Nguyễn Cận, Sơn Nam thừa chính sứ Đàm Văn Tiết6, Hi Dương thừa chính sứ Phạm Như Dao đều đến cửa quân hàng phục. Tiết chế Trịnh Tùng hạ lệnh tiến quân đến xã Tranh Giang, huyện Vĩnh Lại7 đóng dinh vài ngày rồi về Kinh.
Tiết chế Trịnh Tùng sai bn Trà qun công Phm Văn Khoái, Liêm quận công, Vũ qun công [35b] đem 3000 bộ binh, 2 con voi đánh dẹp sông Phố Lại. Ba tướng chia nhau đánh dẹp các huyện Yên Dũng, Vũ Ninh8.
Bấy giờ Mc Mậu Hợp bỏ thuyền đi bộ, đến mt ngôi chùa ở huyện Phượng Nhỡn ẩn np ở đy 11 ngày. Quan quân đến huyện Phượng Nhỡn, có người trong thôn dn đường đưa quan quân vào chùa bắt được Mạc Mu Hợp đem đến dinh quân. Vũ qun công sai người lấy voi chở cùng với hai kỹ nữ về Kinh sư dâng tù, bêu sống 3 ngày rồi chém ở bến Bồ Đề, gửi đầu về hành tại Vạn Li ở Thanh Hoa, đóng đinh vào hai mắt bỏ chợ.
Trưc đây, tông thất họ Mc là Hùng Lễ công Mc Kính Chỉ trốn Đông Triều. Đến đây, lại thu nhặt tàn quân chiếm cứ huyện Thanh Lâm1, tiếm ngôi ở xã Nam Gián, huyện Chí Linh, đặt niên hiệu là

1 Phù Dung: sau là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên cũ, nay thuộc huyện Phù Tiên, tỉnh Hải Hưng.
2 Phủ Hạ Hng: gồm các huyện Tứ Ký và Vĩnh Lại; phủ Nam Sách: gồm các huyện Thanh Lâm (sau là Nam Sách), Chí Linh, Tiên Minh (sau là Tiên Lãng); phủ Kinh Môn: gồm các huyện Giáp Sơn và Đông Triều.
3 Đỗ Uông: người Đoàn Lâm, huyện Gia Lộc, đỗ bảng nhãn khoa Bính Thìn (1556) đời Mạc.
4 Đồng Hàng: người Triều Dương, huyện Chí Linh, đỗ hoàng giáp, khoa Kỷ Mùi (1559) đời Mạc.
5 Ngô Tháo: người xã Đàn, huyện Thọ Xương (nay thuộc Hà Nội), đỗ tiến sĩ khoa Tân Mùi (1571) đời Mạc.
6 Đàm Văn Tiết: người Lãm Sơn, huyện Quế Dương (nay thuộc tnh Hà Bắc), đỗ tiến sĩ khoa Canh Thìn (1580) đời Mạc.
7 Huyện Vĩnh Lại: gồm huyện Ninh Giang của tỉnh Hải Dương và một phần huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Kiến An cũ. Xã Tranh Giang thuộc huyện Ninh Giang sau này.
8 Huyện Vũ Ninh: sau đổi là Võ Giang và huyện Yên Dũng, đều thuộc tnh Hà Bắc ngày nay.
637                                              Đi Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển XVII
Bảo Định, lại đổi là [36a] Khanh Hựu. Từ đấy, tông thất họ Mc là bọn Mạc Kính Phu, Mạc Kính Thành, Mc Kính Thân và trai gái lớn nhỏ vài trăm người đu hưởng ứng. Các văn thn võ sĩ cũ của họ Mạc rủ nhau theo về. Làm tm hành ti, yết bng chiêu mộ dân đinh. Chỉ trong chốc lát các huyện đều hưởng ứng, quân có đến 7 vn người.
Trưc đó, Mc Mu Hp sai con trưởng là Toàn quyền coi việc nước, tiếm đt niên hiệu là Vũ An. Đến khi Mu Hợp bị bắt, lòng người không phục, lại về theo Mc Kính Chỉ. Mạc Toàn bỏ trốn, lại bị quan quân bt được. Khi y, Mc Kính Chỉ chiếm cứ huyện Thanh Lâm, chia đặt ni ngoại tả hữu, cát cứ các huyện để chng lại quan quân.
Tiết chế Trịnh Tùng sai bọn Nguyễn Tht Lý, Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên, Nguyễn Nga đem quân ập tới. Kính Chỉ đem quân đánh úp trên sông. Thấy Lý không kịp đánh, chết [36a] ti trn. Nguyễn Nga bị thương ngã xuống thuyền, quân lính cứu gấp thoát được. Bn Văn Khuê, Bách Niên đều tan vỡ tháo chạy. Quân lương khí giới đều mt về tay giặc. Từ đây, Hi Dương, Kinh Bắc li quy phụ Kính Chỉ.
Ngày 27, Tiết chế Trịnh Tùng sai bn Thái uý Hoàng Đình Ái, Thái bảo Trịnh Đ, Trịnh Đồng, Trịnh Ninh đc sut bộ binh và voi ngựa các dinh tiến đánh Mạc Kính Chỉ, đóng quân ở huyện Cẩm Giàng, đt đồn ở dc sông để chống cự. Li sai Thái uý Nguyễn Hữu Liêu tng đốc thuỷ quân, tiến đến huyện Thanh Lâm, cùng với Đình Ái trong ngoài dựa nhau để cứu viện quan quân ở Cm Giàng. Mc Kính Chỉ đem hết quân chiếm giữ Thanh Lâm, lấy mt dy sông dài chia cách nam bắc, dàn quân liền suốt để chng đánh. Ngày thì giăng cờ, đêm thì bn súng, trong khong hàng tháng, quân hai bên cầm cự nhau, không được lúc nào cởi giáp. Kính [37a] Chỉ thúc quân đp thêm hào luỹ ven sông Thanh Lâm để giữ.
Ngày 25, Tiết chế Trịnh Tùng hạ lệnh cho các dinh cơ dời cả hành dinh Thảo Tân vào ở phường Phúc Lâm phía nam thành Thăng Long.
Trở lên, kỷ này phụ chép họ Mạc tiếm ngôi, bắt đầu từ năm Đinh Hi [1527], Mc Đăng Dung tiếm ngôi, đặt niên hiệu là Minh Đức năm thứ 1; truyền 5 đời, đến năm Nhâm Thìn [1592], Hồng Ninh năm thứ 3, Mạc Mậu Hợp bị bắt. Lại tiếp từ năm Quý Tỵ [1593], Hùng Lễ công tự xưng Khang hựu năm thứ 1, cho đến lúc mất, trước sau gồm 67 năm. Lời sấm nói: Họ Mc được năm Hợi, mt nưc năm Hi. Xem Đăng Dung cưp ngôi năm Đinh Hi, đến Mậu Hợp mất nước năm Quý Hợi2, quả có ứng nghiệm.

Tác giả bài viết: Nguyễn Duy Rằm

Nguồn tin: sưu tầm

Tổng số điểm của bài viết là: 15 trong 3 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 3 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập31
  • Hôm nay1,075
  • Tháng hiện tại47,195
  • Tổng lượt truy cập808,109
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây