GIA PHẢ CHI CẢ HỌ NGUYỄN DUY LÀNG NGHÌN 2013

Chủ nhật - 28/07/2024 07:41 79 0

GIA PHẢ CHI CẢ HỌ NGUYỄN DUY LÀNG NGHÌN 2013

Quá trình hình thành làng Nghìn và sự ra đời Chi cả họ Nguyễn Duy làng Nghìn

1. Quá trình hình thành làng Đông Linh
Làng Đông Linh, dân gian quen gọi là làng Nghìn nằm trên lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình. Theo các cụ cao tuổi trong làng kể lại và nội dung ghi trong bia “Cư nhân đình bi ký” thì: hơn một ngàn năm trước vào thế kỷ thứ VIII Đông Linh còn là một vùng đầm hồ, nước ngập mênh mông, chỉ có vài gò cao nhô lên khỏi mặt nước… khắp nơi cỏ cây lau sậy um tùm, có nhiều ngòi lạch khe nước chằng chịt. Những người đầu tiên đến vùng đất này, một số sống trên các gò cao, khai phá đầm cạn cấy lúa, một số sống ở sông, hồ trên các thuyền mủng bắt tôm, bắt cá làm khô mắm để bán. Khoảng hơn 250 năm sau (cuối thế kỷ VIII - thế kỷ XI) số người đến ở có hơn chục nhà, vài chục người, sau số người đến đông dần, họ lập thành làng gọi nôm na là làng Nghìn, cái tên ấy đã gắn bó với dân làng hơn một nghìn năm nay. Làng Nghìn là nơi đón tiếp các thuyền buôn từ Đế Đô, Kinh kỳ, Phố Hiến xuôi về các bến Địa Đầu, Đài Thần, Bến Đó để trao đổi hàng hóa. Thời Lý, đầu thế kỷ XII, làng Nghìn thuộc xã Địa Linh. Một vị quan họ Phạm người huyện Gia Lâm đạo Kinh Bắc về lập trang Địa Linh, đã có công giáo hóa cho dân làng Nghìn chuyển từ nghề đánh cá, bắt cá, lấy củi sang cấy lúa trồng khoai, ngô, lạc, đậu, dưa, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải lụa. Sang thế kỷ XIII làng Nghìn có đình Trạm, Linh Ứng tự (chùa Nghìn), có Giảng võ đường, có Văn học đường (sau là văn chỉ), lúc này làng Nghìn đã có 4 họ lớn. Đến thời Trần, làng Nghìn là làng La Ngạn và đã có 8 họ lớn. Để ghi nhớ công ơn của vị quan họ Phạm người dân Đông Linh đã phong cho họ Phạm là một trong “ bát thị tính tiên tổ” của làng. Thời Lê, thôn La Ngạn đổi thành xã Đông Địa Linh thuộc tổng Địa Linh, văn bia “Cư Nhân đình” năm Vĩnh Hựu, cống sĩ Ngụy Năng Xưởng viết “Ngô Hưng cư Địa Linh chi đông, rãi dĩ đông chi nhất tự quán ư Địa Linh chi thượng nhi xã yên” (Nghĩa là: Làng ta ở phía đông xã Địa Linh, bèn lấy chữ đông đặt trên chữ Địa Linh gọi là xã Đông Địa Linh vậy). Thời Nguyễn dưới triều vua Tự Đức (1868) Đông Địa Linh đổi thành Đông Linh. Trải qua nhiều biến động thăng trầm của lịch sử tên làng Đông Linh vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay. Dấu tích làng xưa là vùng đầm hồ, gò đống còn thấy ở tên gọi các cánh đồng chỉ có đầm và rộc: Đầm Kênh, đầm Lại, đầm Trong, đầm Cuối, cánh Buồm, rộc Muội, rộc Xanh… và các gò Cái Dù, Cái Hạc, Cỗ Ngựa, Mả Mèn… Làng Đông Linh hiện có 594
hộ, với 2106 khẩu (2010, theo số liệu thống kê của xã An Bài) thuộc hơn chục họ khác nhau. Nhưng tại đình làng chỉ lập bài vị thờ Bát thị tính tiên tổ gồm các họ Phạm, Ngụy, Đàm, Hà, Nguyễn, Vũ, Bùi, Đỗ mà xa xưa tổ tiên họ là những người mở đất lập làng.

Đông Linh nằm cạnh sông Hóa, con sông đã chứng kiến bao chiến tích trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là dưới thời Trần, trong một lần Trần Hưng Đạo cho đại binh vượt sông Hóa tiến về Bạch Đằng lập trận địa thủy chiến chống quân Nguyên xâm lược. Lần ấy hàng vạn tướng sĩ và dân phu chuẩn bị vượt sông thì trời mưa lớn, Trần Hưng Đạo cho dừng binh và cầu đảo, trời sáng mát trở lại. Ông phấn khởi đặt tên cho sông Hóa là sông Linh Giang (sông linh thiêng). Vì vậy trong lịch sử, Đông Linh sớm trở thành một trung tâm giao lưu, trao đổi, buôn bán giữa xứ Đông (Hải Dương) với xứ Nam (Thái Bình), giữa xứ Bắc với vùng biển. Các bến sông Địa Đầu, Đài Thần ở làng có lịch sử hàng ngàn năm. Dân làng Đông Linh ngoài làm ruộng đã sớm biết trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, kéo sợi dệt vải, trồng đậu, lạc, đay, khoai, sắn… Vì vậy, từ xa xưa Đông Linh đã trở thành một vùng quê trù phú, nhân dân sống no đủ, vui tươi.
2. Truyền thống lịch sử
Từ xa xưa, người dân Đông Linh có truyền thống yêu nước, đánh giặc ngoại xâm quyết tâm giữ làng, giữ nước. Ngay từ khi lập làng, người dân Đông Linh đã phải chiến đấu chống lại các cuộc cướp phá, quấy nhiễu của bọn thổ phỉ. Trong đêm trường Bắc thuộc, người dân Đông Linh cùng với người dân cả nước bền bỉ đấu tranh làm thất bại chính sách đồng hóa của bọn phong kiến phương Bắc đô hộ, nuôi dưỡng ý chí đấu tranh. Phong trào đấu tranh chống Bắc thuộc bùng nổ mạnh mẽ vào năm 40 thế kỷ thứ nhất, khi Hai Bà Trưng dấy binh khởi nghĩa đền nợ nước trả thù nhà. Hưởng ứng lời kêu gọi của hai Bà, người dân Đông Linh dưới sự lãnh đạo của Đào Hùng, Đào Dũng, Đào Lược ở An Bệ đã đấu tranh lật đổ chính quyền đô hộ địa phương, sau đó kéo quân đến hợp sức với quân của Hai Bà Trưng góp phần vào thắng lợi của hai Bà. Đến thế kỷ thứ VI, khi Lý Bôn dựng cờ khởi nghĩa, nhiều người con Đông Linh đã đi theo lá cờ khởi nghĩa của ông để đấu tranh giàn lại độc lập cho đất nước. Bước sang thời kỳ độc lập tự chủ, trong hai lần đấu tranh chống Tống vào các năm 918 và 1076 đều có sự góp sức của cư dân Quỳnh Phụ, trong đó có cư dân Đông Linh. Trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược, người dân Quỳnh Phụ trong đó có dân làng Đông Linh đã cùng với Trần Hưng Đạo và các tướng lĩnh lập doanh đồn ven sông Hóa và sông Luộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược góp phần vào thắng lợi chung của cả nước tạo nên một “hào khí Đông A” vang dội một thời. Phong trào chống giặc ngoại xâm của cư dân làng Đông Linh vang dội nhất là trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Sự bóc lột, cướp phá, cưỡng bức cư dân làm nô lệ, đốt sách vở, tàn phá chùa chiền rất dã man của quân Minh khiến người dân rất 
căm phẫn. Nên ngay từ những năm 1414, ở Đông Linh có bảy anh em họ Phạm là Phạm Bôi, Phạm Du, Phạm Châu, Phạm Quý, Phạm Lưu, Phạm Quỳnh, Phạm Khuê đã lập căn cứ kháng Minh. Góp sức cho căn cứ kháng chiến này có tới 500 binh sĩ, lập thành sáu đồn binh. Trung đồn do Phạm Bôi làm chỉ huy. Các tiểu đồn: Đường Lâu, bến Đại Thần, bến Đó, cửa Chùa, xứ Sài do các ông Phạm Du, Phạm Châu, Phạm Quỳnh, Phạm Lưu, Phạm Khuê trấn giữ. Cư dân Địa Linh đã đào hào, đắp lũy, sắm khí giới phối hợp cùng
nghĩa quân chiến đấu, quyết không đi phu, đi lính cho giặc. Năm 1416, tại hội thề Lũng Nhai, Lê Lợi cùng 18 chí sĩ trong đó có Phạm Bôi đã quyết tâm khởi nghĩa diệt Minh. Phạm Bôi đã hợp quân của mình vào với quân của nghĩa quân Lam Sơn, tham gia nhiều trận đánh quan trọng như vây thành Nghệ An, tạo thuận lợi cho đại binh của Lê Lợi giải phóng các vùng xung quanh. Năm 1424, trước sức tiến công của đại binh Lê Lợi, quân địch phải co cụm lại ở thành Đông Quan (Hà Nội) và một số thành nằm trên đường Hà Nội - Lạng Sơn, Phạm Bôi và Trần Lực được lệnh vây hãm thành Khâu Ôn (Lạng Sơn). Phát hiện âm mưu của giặc vờ xin hòa để xin viện trợ, được lệnh của Lê Lợi, Phạm Bôi đã lãnh đạo nghĩa quân của mình hạ thành Khâu Ôn giành thắng lợi. Tháng 9/1426 Phạm Bôi và sáu anh em họ Phạm đã kéo quân về giải phóng huyện Đa Dực, cư dân Đông Linh đã nổi dậy hưởng ứng lật đổ chính quyền thống trị của quân Minh ở địa phương, quân địch ở đây bị đè bẹp nhanh chóng. Đến cuối năm 1427, 15 vạn quân Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạch chỉ huy hùng hổ vượt biên giới Lạng Sơn vào nước ta. Phạm Bôi và Trần Lực vừa đánh địch vừa rút lui gây cho địch nhiều tổn thất và khó khăn, sau đó nhử Liễu Thăng vào tận địa mai phục sẵn của quân ta ở ải Chi Lăng. Tại đây, Liễu Thăng và đội quân của y bị diệt gọn. Mộc Thạch nghe tin bỏ về nước, Vương Thông kinh hoàng phải đầu hàng. Cuộc kháng chiến chống Minh giành thắng lợi có sự góp sức không nhỏ của nhân dân và các tướng lĩnh người Đa Dực, trong đó có cư dân làng Địa Linh. Vua Lê Thái Tổ đã phong chức Tư mã cho Phạm Bôi, đứng thứ 27 trong số 93 công thần khai quốc, Phạm
Bôi được mang dòng họ vua là Lê Bôi. Phạm Du được phong làm Tham tán quốc sư; Phạm Châu được phong làm Thủy trào đại đốc vận; Phạm Qúy, Phạm Quỳnh làm Trung ương thiên trưởng thiên quan tọa. Bảy anh em họ Phạm về Địa Linh xóa bỏ chế độ điền nô, cấp ruộng cho dân cày, lập ra các thái ấp. Sau khi đánh đuổi giặc Minh, Tư mã Phạm Bôi được cử làm tổng quản vệ quản Tây đạo, trực tiếp chỉ huy quân trấn Nghệ An, ông đã dẹp loạn ở phía tây Nghệ An giành thắng lợi. Vua điều ông về làm Tổng quản vệ quản Đông Đạo. Năm 1442, vua Lê Thái Tông mất, triều đình rối ren. Thái tử Bang Cơ cùng mẹ là Nguyễn Thị Anh được Phạm Bôi, Nguyễn Xí… bảo vệ đưa về ẩn náu ở Neo (Đồng Tiến, Quỳnh Phụ). Phạm Bôi và các tướng lĩnh lập lại trật tự triều đình, đưa Bang Cơ về làm vua lấy hiệu là Lê Nhân Tông (1443-1459). Vua Lê Nhân Tông phong cho Phạm Bôi là “Nhập nội kiểm hiệu Thái Bảo”. Năm 1444, Thái bảo Phạm Bôi và Tổng quản Lê Khá đem quân đến Châu Hóa đánh bại giặc Chiêm Thành. Năm 1459, vua Nhân Tông bị sát hại, Phạm Bôi và sáu anh em họ Phạm về quê Địa Linh tập hợp 800 quân sĩ kéo về Thăng Long cùng
các tướng khác lập lại trật tự triều đình. Các tướng Phạm Quý, Phạm Quỳnh, Phạm Khuê và con trai Phạm Bôi là Phạm Dư đã chống trả bọn phản nghịch và bị tử trận. Sau khi bọn phản nghịch bị đè bẹp, hoàng tử Hạo được suy tôn lên làm vua lấy niên hiệu là Lê Thánh Tông (1460 - 1497). Lê Thánh Tông đã ban chức tước cho Phạm Du là Thái Bảo, Phạm Châu là Tả bộc xạ, Phạm Lưu là Đô đài đại phu. Bốn ông Phạm Quý, Phạm Quỳnh, Phạm Khuê, Phạm Dư bị tử trận được truy phong và cấp ruộng đất thế nghiệp.
Đến tháng 9/1470, vua nước Chiêm Thành đánh úp Châu Hóa, sát hại dân thường dã man. Vua Lê Thánh Tông giao cho Phạm Bôi giữ chức vụ “Cử binh tiền phong”, đôn đốc, kiểm tra quân tiên phong; Phạm Châu làm Thống đốc thủy bộ đại tướng quân; Phạm Lưu làm Điều binh lương vũ lộ. Tất cả cùng hợp sức đánh Chiêm Thành giành thắng lợi. Để ghi nhớ công lao của các ông, nhân dân Địa Linh đã lập đình thờ các ông và tôn vinh Phạm Bôi là Thành Hoàng làng. Sau những chiến thắng lẫy lừng đánh đuổi giặc Minh, đến đầu thế kỷ XVI, triều Lê suy yếu, vua Lê sa đọa, triều đình rối ren, cục diện Nam - Bắc triều, Trịnh - Nguyễn phân tranh. Không bằng lòng với sự suy thoái của chế độ, nhiều nho sĩ ở Đông Linh đỗ đạt không chịu ra làm quan hoặc làm quan được một thời gian thì xin từ quan về ở ẩn, sống cuộc sống thanh bạch, dạy học bốc thuốc cứu dân. Khi đất nước bị chia cắt, cuộc chiến giữa đàng Trong với đàng Ngoài khiến cho dân chúng lầm than khổ cực. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra chống lại sự thối nát của chính quyền Lê - Trịnh, trong đó tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu đã lôi kéo được đông đảo người dân Đông Linh tham gia. Năm 1749, Nguyễn Hữu Cầu đã sát nhập với quân của Bùi Đá kéo quân về lập doanh đồn ở làng La Ngạn, được sự ủng hộ của nhân dân làng Nghìn và các làng xung quanh Nguyễn Hữu Cầu đã lãnh đạo nghĩa quân đánh úp đồn binh của chúa Trịnh ở Quỳnh Côi, tấn công vào Ngự Thiên nơi có Hoàng Ngũ Phúc là tướng của chúa Trịnh, thống lĩnh kỳ binh ở đạo Hải Dương. Hoàng Ngũ Phúc đem quân vây đánh căn cứ La Ngạn, tàn sát và đốt phá rất dã man gây nên sự căm phẫn trong lòng dân chúng. Sự thối nát của triều đình vua Lê chúa Trịnh đã khiến cho cuộc sống của người dân Đông Linh nói riêng và nhân dân cả nước nói chung vô cùng cực khổ, họ sẵn sàng đứng lên đấu tranh chống lại sự bất công khi có cơ hội. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, cùng với nhân dân cả nước, người dân Đông Linh đã đấu tranh chống Pháp xâm lược. Nguyễn Phong Loan cùng nhiều trai tráng trong làng đã gia nhập nghĩa quân của Tạ Quang Hiện, đào hào đắp lũy, lập các đội dũng binh, sắm sửa vũ khí chống giặc. Nguyễn Phong Loan được phong làm chánh hiệp quản chỉ huy các đội dũng binh, phong trào chống Pháp xâm lược diễn ra sôi nổi ở Đông Linh góp phần vào phong trào kháng Pháp trong cả nước. Bước sang đầu thế kỷ XX, các khuynh hướng cứu nước mới được truyền vào nước ta, các sĩ phu yêu nước ở Đông Linh đã sớm đón nhận các khuynh hướng ấy. Đặc biệt Đông Linh tự hào là một trong hai chi bộ cộng sản đầu tiên của huyện Quỳnh Phụ. Đầu tháng 5/1930 chi bộ cộng sản Đông Linh được thành lập với ba đảng viên: Nguyễn Duy Tâng, Nguyễn Văn Đang, Vũ Nhượng do đồng chí Nguyễn Duy Tâng làm bí thư chi bộ. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ cộng sản Đông Linh, nhân dân Đông Linh đã một lòng tin theo Đảng, góp sức to lớn vào hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược. Nhiều người con Đông Linh đã chiến đấu hi sinh hoặc để lại một phần xương máu của mình trên chiến trường vì nền độc lập tự do của đất nước. Đông Linh từng là hậu phương lớn trong các cuộc kháng chiến chống phong kiến phương Bắc đến đây vẫn phát huy được khả năng ấy, là địa phương luôn hoàn thành tốt vai trò hậu phương của mình “ thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Nhân dân Đông Linh đã cùng với nhân dân cả nước làm nên những thắng lợi to lớn, giành lại độc lập tự do cho tổ quốc. Với truyền thống yêu nước ấy, hiện nay Đông Linh đang cùng cả nước vững bước trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, mỗi con người nơi đây đều có ý thức xây dựng quê hương mình ngày càng giàu đẹp hơn.
3. Truyền thống văn hóa
Trải qua hơn ngàn năm xây dựng, phát triển, Đông Linh có truyền thống văn hóa sâu đậm. Cũng giống như những vùng quê khác trên quê lúa Thái Bình, ở Đông Linh cũng hội tụ nhiều nét đẹp văn hóa, điều này được thể hiện trong sinh hoạt văn hóa thường ngày và trong đời sống tâm linh của người dân nơi đây. Đông Linh tự hào là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, vùng đất thiêng này đã sinh ra nhiều người hiền tài, có nhiều di tích, danh thắng nổi tiếng mà người xưa đã từng ca ngợi khắc chữ, sơn son thiếp vàng treo ở đình làng:

“Địa linh nhân kiệt kim nhi hậu
Văn vật thanh danh cổ tự hoàn”

Đình Đông Linh đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia (năm 1991). Đình gồm ba tòa, trong cùng là tòa thanh Miếu (cung cấm) có một phần và bài vị thờ Phạm Bôi. Tòa giữa thờ thất vị Thành hoàng. Phía trước tòa giữa ở sân là hồ vọng nguyệt, hai bên hồ là hai tòa giải vũ. Ngoài cùng là tòa đại bái 5 gian rộng rãi nơi bái vọng, nơi họp làng. Bên phải đình là một hồ nước rộng, hai bên sân là hai hàng bia đồng thời là lầu tướng của sân cờ, bên phải sân vẽ một bàn cờ để dân làng tổ chức đấu cờ trong các ngày làng vào hội. Trong đình làng còn rất nhiều đồ thờ, các bức đại tự, câu đối từ thời Lê. Các câu đối, đại tự đều có tính giáo dục sâu sắc. Trong đình thờ Thành Hoàng làng là Phạm Bôi - Công thần khai quốc thời Lê. Phạm Bôi là một trong 18 người tham gia hội thề Lũng Nhai (năm 1416). Trong mười năm
nếm mật nằm gai cùng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, ông được tham gia nhiều trận đánh góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Khi Lê Lợi lên ngôi hoàng đế đã ban cho Phạm Bôi tước huyện hầu và được ban quốc tính là Lê Bôi. Ông mất tại quê nhà. Sau khi ông mất, dân làng Đông Linh đã tôn Phạm Bôi và các nghĩa sĩ đồng thời cũng là anh em của ông là Phạm Du, Phạm Châu, Phạm Lưu, Phạm Quỳnh, Phạm Qúy, Phạm Khuê làm Thành Hoàng làng. Tại đình làng còn có câu đối:

“Thiên cổ Lam Sơn lưu vĩ tích
Ức niên Đông Địa lẫm linh danh”
(Nghĩa là: Muôn thuở chiến công của các ông còn gắn mãi với Lam Sơn
Ngàn vạn năm tiếng thơm ấy vẫn để lại đất Đông Linh).

Hàng năm, cứ vào các ngày 14, 15, 16 tháng hai âm lịch, dân làng lại tổ chức hội làng để tưởng nhớ tới công lao của các ông. Hội làng tổ chức vào tháng hai đây là lúc nông nhàn trong lao động sản xuất nên lễ hội làng đã cuốn hút được sự tham gia đông đảo của cộng đồng dân cư trong và ngoài làng, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người dân Đông Linh. Trong hội cùng với việc tiến hành các nghi thức tế lễ thường tổ chức thêm nhiều hình thức đua tài và nhiều trò chơi, trò diễn dân gian như: đánh cờ người, bắt vịt dưới ao, chọi gà… tạo nên một không khí vừa trang nghiêm, vừa nhộn nhịp, sôi động. Lễ hội đã thể hiện ý thức cộng đồng, cộng cảm, giao lưu của người dân làng Đông Linh. Hội làng còn là nơi để cư dân hưởng thụ văn hóa dân gian trong đó hát chèo là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong mỗi dịp hội làng:

“Chẳng thèm ăn chả ăn nem
Thèm mo cơm tẻ thèm xem hát chèo”
Và mảnh đất Thái Bình cũng là cái nôi của nghệ thuật chèo xứ Bắc:
“Ăn no rồi lại nằm khoèo
Nghe tiếng trống chèo bế bụng đi xem”.

Ngoài tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng thì đạo thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ là tín ngưỡng lâu đời nhất và bền vững nhất của cư dân nơi đây. Nhà nào cũng có bàn thờ tổ tiên, các ngày giỗ, ngày rằm, mùng một hàng tháng, con cháu đều có nén hương dâng lên bàn thờ ông bà tổ tiên để tưởng nhớ những người đã khuất. Đây là nét đẹp trong văn hóa tâm linh của người Đông Linh nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung. Đông Linh không chỉ là mảnh đất “địa linh nhân kiệt” mà từ lâu đã nổi tiếng với nhiều cảnh đẹp. Làng có đình, chùa, miếu, văn chỉ hàng huyện. Những đền miếu ấy đều là những đồn lũy trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đầu thế kỷ XV, sau dân lập miếu thờ các nghĩa sĩ. Các đền miếu thờ này đến nay hầu như không còn nhưng chùa và đình làng thì vẫn còn. Chùa Đông Linh có tên là “Linh ứng Tự” tương truyền được xây dựng vào thời vua Lý Huệ Tông (1211 - 1224) và đã được trùng tu nhiều lần.
Thời Lý, Trần có hiện tượng “tam giáo đồng nguyên” (Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo) trong đó Phật giáo phát triển rực rỡ nhất. Làng Đông Linh cũng không là một ngoại lệ. Dấu tích còn lưu lại cho tới nay là ngôi chùa Nghìn. Trong cuộc sống thường ngày, một số người dân vẫn có tục ăn chay hoặc đi chùa thắp hương vào các ngày rằm, mùng một và các ngày lễ tết. Điều đó chứng tỏ, Phật giáo đã ăn sâu, bén rễ vào tiềm thức và đời sống tinh thần của người dân Đông Linh, gắn bó mật thiết với hội làng, với các hoạt động tín ngưỡng tâm linh khác. Ở Đông Linh, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng tôn giáo nhiều khi đã gắn liền, hòa nhập trong tâm linh của không ít người. Họ có thể vừa thờ cúng tổ tiên tại gia, vừa tham gia nghi lễ ở đình và vẫn đi thắp hương, niệm phật tại chùa. Điều này thể hiện sự hướng thiện, cầu phúc, ít cuồng tín của người dân làng Đông Linh. Đông Linh còn được mọi người biết đến bởi đây là một làng quê của những dòng họ truyền thống, ở làng có ba dòng họ lớn: Nguyễn Duy, Vũ Như, Nguyễn Bá. Mỗi dòng
họ đều có những đóng góp nhất định cho quê hương và cũng là những dòng họ có những con người được lịch sử lưu danh. Mỗi dòng họ lại có những truyền thống và nét đẹp riêng của mình nhưng tất cả đều là niềm tự hào của người dân nơi đây. Phấn đấu để trở thành làng văn hóa và dòng họ văn hóa, gia đình văn hóa đang trở thành phong trào và là mục tiêu phấn đấu của mỗi gia đình, dòng họ. Các gia đình, dòng họ ở Đông Linh đều coi trọng nề nếp, gia phong, lấy đó làm đạo lý để giáo dục con cái. Điều này được thể hiện trong hương ước của làng: “Những nhà có con cháu, anh em phải dạy bảo các sự tử tế không được để hoang tàn du thử du thực. Nếu để xảy ra trộm cướp thì 18 tuổi trở lên đã có nhà nước bắt tội không kể, còn từ 18 tuổi trở xuống thì làng phạt vào bố mẹ, anh em, về tội không biết dạy bảo, để con cháu làm xằng” Đông Linh còn là một làng khoa bảng nổi tiếng. Thời phong kiến làng Đông Linh có 2 hoàng giáp, 2 tiến sĩ, 15 cử nhân, hơn 50 giám sinh, sinh đồ hiếu sinh, nhất nhì trường. Trong số ấy nhiều người nổi tiếng về tài đối đáp, học giỏi từ khi còn nhỏ, hoặc lúc đang đi học, như tiến sỹ Nguyễn Duy Hợp, Nguyễn Kim Phương. Dân làng vẫn còn nhớ câu ca:

“Hà Nội ba sáu phố phường
Không ai sánh nổi cống Phương làng Nghìn”.

Nhiều ông nghè, ông cống ở làng Đông Linh còn nổi tiếng ở chốn quan trường hoặc để lại tiếng tốt trong dân. Hoàng giáp Nguyễn Doãn Khâm thi đỗ khoa Giáp Tuất (1514) làm đến Tả thị lang bộ Lại, đã từng được cử đi sứ sang nhà Minh, khi về trí sĩ ông được phong Thượng thư. Hoàng giáp Nguyễn Duy Hòa đỗ khoa Ất Mùi (1535) làm đến Tổng binh thiên sự, trấn thủ Cao Bằng. Nhiều người là tri phủ tri huyện ở những phủ huyện có truyền thống hiếu học như: Ngụy Năng Xưởng tri huyện Từ Liêm, Nguyễn Duy Thục tri huyện Đông Quan, Vũ Công Đường tri phủ Thiên Trường, Nguyễn Duy Tân tri phủ Ứng Hòa. Từ xưa Đông Linh đã có phong trào khuyến học, những người là sinh đồ thì được dự các kỳ tế tự ở đình làng chung, được cấp ruộng. Nhiều nhà hai anh em, cha con đi học, truyền thống ấy được nối tiếp đến ngày nay. Làng Đông Linh hiện nay có gần hai chục người có hàm giáo sư, học vị tiến sỹ, thạc sỹ, số người có bằng cử nhân có tới vài trăm, trong đó họ Nguyễn Duy đã có tới hơn một trăm người. Nhiều gia đình có cả ba thế hệ cha- con, ông -cháu đều có bằng cử nhân. Có những gia đình nông dân, cha, mẹ, ông, bà không có ai đỗ đạt nhưng lại có con cái đỗ cử nhân, tiến sĩ. Đó là truyền thống ham học, hiếu học của con người nơi đây. Truyền thống ấy của làng đã được kế thừa và phát huy, biểu hiện rõ nhất ở thành tích của trường Tiểu học và trường Trung học cơ sở An Bài đã trở thành trường anh hùng. Làng Đông Linh còn nổi tiếng với món bánh chưng. Bánh chưng làng Nghìn to, nặng tới 70kg mà ăn vẫn ngon. Xưa làng có lệ thi bánh chưng vào ngày Mồng 6 Tết. Mỗi giáp chỉ gói một chiếc, bánh được đem tế thần Thành Hoàng làng, sau được đưa về các giáp, chia đều cho mọi người, mọi nhà. Có người nói tục này có từ thời chống giặc Minh đầu thế kỷ XV, Phạm Bôi đã gói bánh để khao quân. Có người lại nói tục này có từ thời Hùng Vương. Hiện nay chưa xác định được chính xác thời điểm xuất hiện của tục này. Hiện nay, những di sản văn hóa còn lưu giữ, bảo tồn được ở làng Đông Linh phải kể đến hệ thống bia đá. Xưa các bia được đặt rải rác ở đền, miếu, nay được quy tập về sân đình. Tiêu biểu là bia “Toàn huyện duệ Tiên hiền bi ký” được khắc dựng vào năm Long Đức thứ 3 (1734) thời vua Lê Thuần Tông. Bia khắc cả hai mặt, mặt chính khắc tên, tên hiệu, quê quán, năm đỗ đạt của 27 đại khoa từ Tiến sĩ đến Trạng nguyên của huyện Phụ Dực. Mặt sau của bia ghi tên, quê quán, học vị, chức tước của 102 cống sinh, sinh đồ, giám sinh. Ngoài ra còn có bia “Cư nhân đình bi ký” khắc năm 1737. Bia ghi lịch sử ngôi đình, tóm tắt sự phát triển của làng qua các thời kì. Phần chính của bia ghi rõ: “Đặt tên đình làng là Cư Nhân để con cháu sau này tu dưỡng cái đức, biết sống ôn hòa, nhân hậu”, dần dần sẽ trở thành thuần phong mỹ tục của làng. Để nhắc nhở đời sau phải biết giữ gìn những giá trị truyền thống do cha ông để lại, tại đình làng còn đôi câu đối:

“Văn vật thịnh hưng truy vãng tiết
Tử tôn phục tủy liệu tư đình”
(Nghĩa là: Những truyền thống, những di sản văn hóa quý báu mà cha ông đã dày
công xây dựng, còn hay mất phát triển lên cao tầm hay không là ở con cháu).

Truyền thống văn hóa của làng Đông Linh được thể hiện trong những câu thơ giản dị mà ngọt ngào:

“… Tháng hai nhớ cánh đồng bông
Nhớ dưa chuột, nhớ bánh chưng làng Nghìn
Nhớ cây đa đứng sân đình
Nhớ sân cờ tướng nổi danh kì tài
Thi lợn giữa rằm tháng hai
Thi gà Đồng Tuế xóm ngoài xóm trong
Tháng giêng mồng 6 bánh chưng
Bánh to nhất nước khắp vùng đến xem
Cạnh chùa văn chỉ tiên hiền
Văn từ hàng huyện liền bên cạnh đình
Làng Nghìn khoa bảng đề danh
Cử nhân tiến sĩ sử xanh bia đề.

Nhân dân Đông Linh ngày nay luôn luôn ghi nhớ lời dạy của cha ông, đã và đang phát huy để quê hương Đông Linh mãi mãi là một làng văn hiến, một điểm sáng về xây dựng làng văn hóa. Năm Mậu Tuất (2018) cuốn gia phả Chi cả họ Nguyễn Duy làng Nghìn viết từ năm Quý Tỵ (2013) chính thức ra mắt. Trong sự mong mỏi của mọi người với đòi hỏi chính đáng, từ đó Ban Biên tập tiếp tục sưu tầm dữ liệu, chỉnh lý bổ sung và cập nhật. Hy vọng năm Quý Mão (2023) sau 10 năm viết cuốn Gia phả chi cả họ Nguyễn Duy làng Nghìn lần đầu tiên, Ban Biên tập cho ra mắt dòng họ cuốn Gia phả Chi cả họ Nguyễn Duy làng Nghìn tái bản lần thứ nhất có chỉnh lý, bổ sung.
Gia phả dòng tộc của các dòng họ nói chung và họ Nguyễn Duy chúng ta nói riêng đều phải mang tính hệ thống, kế thừa và phát triển, từng bước được hiệu chỉnh, hoàn thiện dần và không bao giờ dừng lại mà luôn được bổ sung theo dòng chảy của thời gian qua các thế hệ; ngày càng thêm phong phú, tăng bề dày truyền thống lịch sử cho Đại tộc dòng họ Nguyễn Duy làng Nghìn. Trên cơ sở những tư liệu có được, quá trình sưu tầm bổ sung tài liệu qua các chi và tìm hiểu ở các con cháu trong dòng họ trên mọi phương tiện thông tin (hỏi đáp trực tiếp, tự khai, hỏi qua điện thoại, Zalo, Messenger, EMS, E-mail… đi lấy thông tin ở các lăng mộ của các phái, cành nhánh...); chụp ảnh các thành viên trong dòng họ và các hiện vật; soạn thảo các nội dung quy ước, gia huấn... Đồng thời lấy ý kiến tập thể của các thế hệ hiện tại để thống nhất xây dựng nên cuốn gia phả Chi cả họ Nguyễn Duy làng Nghìn, tổng hợp, phân tích, kết nối… soạn thảo Gia phả theo hệ thống dọc, sau đó tiếp tục chỉnh lý hoàn thiện và in ấn.
Sau nhiều lần chỉnh sửa bản thảo (từ năm 2019 đến năm 2022) có được kết quả như ngày hôm nay là một sự cố gắng rất lớn, mang đầy trách nhiệm và tâm huyết của Ban Biên tập và sự ủng hộ của các thành viên dòng họ Nguyễn Duy trong suốt mấy chục năm qua.
Do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, Gia phả Chi cả họ Nguyễn Duy làng Nghìn tái bản lần này sẽ không tránh khỏi được những thiếu sót. Ban Biên tập rất mong sự đóng góp của toàn thể của các bác, các chú, các cô, anh em, con cháu… trong họ để cuốn gia phả Chi cả họ Nguyễn Duy làng Nghìn tiếp tục bổ sung, chỉnh lý và tái bản những lần sau được tốt hơn.
Xây dựng gia phả là sự kế tiếp với các thế hệ trước và còn là tiếp nối với các thế hệ tương lai. Gia phả là minh chứng sự trường tồn của lịch sử dòng họ; gia phả là bằng chứng của lịch sử; là hiện thân cho tương lai.

Chúng tôi xin trân trọng cám ơn!
Thái Bình, ngày 20 tháng 01 năm 2023
(Chỉnh lý, bổ sung, từ ngày 14 tháng 3 năm 2019)
TM. Ban biên tập
Nguyễn Duy Rằm

PHẦN MỞ ĐẦU

Ta biết: Nước có sử, nhà có phả.
Lịch sử của đất nước ghi rõ từng thời kỳ với những con người, sự việc của nước nhà; còn gia phả tức sử của một dòng họ thì ghi những việc thuộc dòng họ ấy, bắt đầu từ ông/bà tổ phụ mẫu, người mà những người đang sống biết được, ghi đầy đủ về tổ quán của ông/bà tổ ấy cho đến ngày nay; ghi các thành viên (hậu duệ) của dòng họ, thứ thế (đời), ngày sinh, ngày mất, ghi hành trạng của họ; ghi phả đồ, ngoại phả và phụ khảo.
Đất nước trong giai đoạn không có sử gọi là huyền sử. Nhà không có phả gọi là huyền phả, tức tổ tiên, truyền thống dòng họ, con người, sự việc ở đây chỉ dựa vào ký ức và truyền khẩu, do vậy lâu ngày bị mai một. Có gia phả, mọi việc sẽ rõ ràng, chính xác, bền vững, khả năng lưu truyền mạnh mẽ, mau lẹ và đi xa hơn. Người “mất gốc”, không biết mình do ai sinh ra và gốc gác ở đâu, đây là hoàn cảnh đáng thương cô độc và quạnh quẽ. Người có gia phả sẽ tự tin, tự hào về truyền thống tốt đẹp, sáng lạng của dòng họ mình để củng cố niềm tin, vững bước đi lên trong mọi tình huống. “Dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng” trong đó bao hàm các dòng họ cũng là những dòng họ có những phẩm chất tốt đẹp; những cá nhân thoái hóa, biến chất, làm sai quấy thuộc về cá biệt.
Người Việt Nam ta có câu: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, thực tế dựng gia phả lâu nay, chúng ta đều thấy câu nói trên là đúng! Có gia phả, con cháu sẽ nắm chắc ngày giỗ ông bà, không cưới gả với người trong họ, nắm rõ thứ thế để trong giao tiếp, việc thưa gởi, tôn ti sẽ rõ ràng.

PHẦN HAI
GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ VÀ GIA PHẢ LÀ GÌ?

Gia đình:
Là một thiết chế xã hội gồm những thành viên khác giới thông qua hôn nhân mà có và qua gia đình để thực hiện các chức năng sinh đẻ, kinh tế, văn hóa, xã hội, tín ngưỡng … Dòng họ là một thiết chế xã hội cổ truyền, gồm nhiều gia đình cùng huyết thống, có từ lâu ở nước ta. Họ của các dân tộc không giống nhau do điều kiện lịch sử, kinh tề, xã hội, tập quán khác nhau. Khi có con cái thì các thành viên liên kết nhau bằng các quan hệ hôn nhân và di truyền, Hôn nhân là ngẫu nhiên, di truyền là tất yếu. Gia đình là một phạm trù lịch sử, thay đổi và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội.
Về hôn nhân:
Quần hôn (cha mẹ chung) và hôn nhân cá thể. Có gia đình mẫu hệ, gia đình phụ hệ, tiểu gia đình (hai thế hệ) và đại gia đình (ba thế hệ trở lên). Tiểu gia đình vừa là đơn vị kinh tế vừa là tế bào xã hội. Từ khi chuyển qua chế độ phụ quyền có sự bất bình đẳng nam nữ. Xã hội có giai cấp, sự bất bình đẳng nầy càng nặng nề, phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, và yêu cầu phải được giải phóng. Hiện nay có sự quan hệ tình dục không cần hôn nhân, không xây dựng gia đình, nguy cơ đồng tính luyến ái, bệnh AIDS, sinh con theo phương pháp “vô tính”, theo quan điểm chúng tôi, là vi phạm đạo đức. Lành mạnh hóa gia đình gắn với lành mạnh hóa dòng họ, xây dựng gia đình văn hóa gắn với việc xây dựng dòng họ văn hóa. Kế hoạch hóa gia đình là một quốc sách. Luật Hôn nhân và Gia đình (1986), luật Dân sự, luật Bảo vệ Trẻ em là những nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng gia đình-dòng họ kiểu mới: “Tiến bộ - một vợ một chồng - nam nữ bình đẳng- bảo đảm hạnh phúc con cái”. Ta nêu thêm: “Kính trọng, tôn thờ tổ tiên và tạo phúc lâu dài!”
Dựng gia phả, phục hồi ngành gia phả là biện pháp tích cực góp phần xây dựng gia đình - dòng họ văn hóa, phải nâng nó lên cho đúng tầm với xã hội ngày nay.
Dòng họ:
Một ít dân tộc Việt Nam là theo họ mẹ, còn hầu hết theo họ cha. Người cùng một họ, có vị tổ chung gọi là “thần chủ tổ tiên”. Một ít trường hợp là sống tập trung, đa số các gia đình cư trú xen với các gia đình, dòng họ khác trong một làng, xóm. Đây cũng là tổ quán của dòng họ..
Dòng họ không phải là đơn vị kinh tế, tuy nhiên dòng họ có phần ruộng, gọi là ruộng hương hỏa, ruộng ky. Có nơi có nhà thờ họ chung. Người ba đời trong họ không được lấy nhau, (trừ triều Trần có tập tục nội hôn, cho lấy nhau để bảo vệ ngai vàng) Dòng họ có nghĩa vụ đoàn kết, tương trợ nhau và có nghĩa vụ thờ phụng tổ tiên mình.
Họ tộc có nhiều Chi, Phái, Tiểu chi, có Trưởng họ. Người con trưởng của Chi trưởng làm trưởng họ, nếu chết, người con trưởng chi kế thay.
Mỗi họ có nhà thờ họ, nhà thờ chung gọi là từ đường, nhà thờ tổ. Họ lớn có nhiều chi, mỗi chi có nhà thờ chi. Cũng có nhiều họ không có nhà thờ. Hằng năm có một ngày giỗ tổ, thường gọi là ngày giỗ họ, giỗ tổ...
Mỗi họ có hoặc không có gia phả, tộc phả. Hiện nay đang có phong trào rất quí là đi tìm, kết nối nhận họ và dựng phả ở từng dòng họ, chi họ, với mục đích vĩnh tồn tôn thống, giáo dục truyền thống gia đình-dòng họ, Chúng ta kiến nghị với Nhà nước, ngành văn hóa, ủng hộ phong trào nầy một cách tích cực, mạnh mẽ hơn nữa..
Làm gia phả trước hết phải hiểu thấu đáo dòng họ.
Các họ ở Việt Nam hiện nay: Chế, Lang, Man, Thiên, Ôn, Ông, Ma…gốc Chăm; Danh, Thạch, Sơn …gốc Campuchia; Duôn, Du, Dham, Nie từ Êdê. Hiện nay ta chưa có thống kê đầy đủ, song có thể nói có trên 300 họ của Việt Nam, hay hơn nữa.
Họ Việt Nam có từ thời cổ.
Việc đặt tên, chữ lót:
- Húy (tên đẻ): tên cha mẹ đặt để ghi vào sổ sách, gia phả, con cái không được gọi.
- Thụy (hèm): khi chết do vua đặt hoặc do người trước khi chết dặn đặt.
- Hiệu: tên riêng tự chọn.
- Tự: tên theo tập quán từng vùng. Tên tước do vua ban..
- Bí danh: do đi kháng chiến đặt.
Khái niệm gia phả là gì?
Gia phả là quyển sách, quyển tập ghi chép tên tuổi, kỷ sự (tiểu sử thu gọn), ghi ngày sinh, ngày tử, vị trí phần mộ và ngày lập mộ (đã chết)…của từng người trong họ, theo thứ tự các đời.
Từ điển Hán-Việt Đào Duy Anh định nghĩa gia phả là: “Sách ghi thế hệ trong họ và lịch sử tổ tiên”.
Gia phả xuất hiện ở phương Đông và phương Tây từ xưa. Trung Quốc: thời Chiến Quốc với quyển “Thế bản”. Thời Ngụy, thời Tần phát triển mạnh. Việt Nam: năm 1026, vua Lý Thái Tổ ra lệnh soạn Ngọc điệp (Phả Vua). Các tư gia, thế gia vọng tộc cũng biên soạn gia phả.
Nội dung gia phả gồm có:
Chính phả: có phả ký, phả hệ và phả đồ (nội dung nói ở phần sau).
Ngoại phả: ghi nhà thờ tổ, việc cúng bái, văn khấn, ghi khu mộ, ghi danh sách học vị các thành viên đỗ đạt, ghi tiểu sử một số thành viên nổi bật, ghi quan hệ hôn nhân cưới gả với dòng họ nào….
Phụ khảo: ghi địa chí thôn, xóm, đình miếu, chợ búa, bến đò….
Nghiên cứu gia phả là khoa học, thực hành gia phả là thiêng liêng. Phải công phu, nghiêm túc trong việc dựng phả. Gia phả là tư liệu quí giá cho dòng họ, nhà sử học, dân tộc học.

PHẦN BA
BỐ CỤC HỢP LÝ CỦA BỘ GIA PHẢ

Biên soạn bộ gia phả được chia ra từng bước sau:
Cách đặt tựa và cách viết lời tựa: Không nên đặt tựa chữ Hán-Việt, cũng đừng đặt như “Võ tộc thế phả”. Tựa của quyển gia phả gồm hai phần chính: phần trên là tên dòng họ ta đang dựng, phần dưới là địa danh hành chính đương thời, ghi kỷ từ xóm hoặc thôn, xã, huyện và tỉnh hoặc thành phố.

Thí dụ: GIA PHẢ Chi CẢ HỌ NGUYỄN DUY
Thôn Đông Linh, xã An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

Với tựa trên, người tìm sẽ dễ dàng, không lầm lẫn. Những tên xóm thôn trong quá trình lịch sử đã qua thì sẽ đưa vào phần phả ký.
Bài nói đầu: Phần nhiều do dòng họ viết hoặc ta viết theo sự ủy nhiệm của dòng họ. Bắt đầu nêu mục đích, nguyên nhân, lý do ta làm phả; tiếp theo nêu diễn tiến quá trình thực hiện, cùng ai làm, làm và đạt kết quả các phần theo bố cục ra sao. Nêu ưu khuyết, kêu gọi lớp hậu duệ bổ cập. Lời cảm ơn, ngày tháng viết, và tên họ những người chủ trì. Câu văn cần súc tích, ngắn gọn.
Phần chính phả: Gồm phả ký, phả hệ và phả đồ.
Phả ký: Phả ký là lịch sử tổng hợp, toàn diện, chi tiết của dòng họ (thực tế là của một chi họ), viết theo lối viết sử, trong sáng, gãy gọn, dễ hiểu; cần nắm chắc các thuật ngữ chuyên ngành gia phả. Lúc ghi chép cần tôn trọng hệ thống ký ức và truyền miêng của người trong họ. Mỗi họ, khi tiếp xúc sâu sẽ phát hiện được một vài người am hiểu, minh mẫn. Cách hỏi, cách phỏng vấn phải theo trình tự, hệ thống, từng loại việc, từng người. Phải tới từng chi, từng hộ để hỏi, quan sát. Hệ thống mồ mả, bài vị, văn bản tương phân ruộng đất, sổ bộ đời, địa bạ, sách “Đăng Khoa Lục”, tự điển Nhân vật, các loại bằng khen, giấy khen, giấy chứng nhận “Mẹ Việt Nam anh hùng”… là nguồn bổ sung quí cho ta.
Phả ký là bài văn khó viết nhất!
Bài phả ký phải đạt mục đích, yêu cầu:
Phải phản ánh toàn điện lịch sử dòng họ từ khởi thủy đến nay; xác định rõ tính ưu việt của dòng họ, đây là quan điểm đúng đắng và chỉ ra phương hướng xây dựng dòng họ văn hóa.
Do đó, để viết phả ký đầy đủ, cần phải đi thực tế (đi điền dã), trực tiếp khảo sát, sưu tra đầy đủ; liên hệ thật sâu từng thời kỳ lịch sử ứng với tùng đời trong họ; phải quán triệt quan điểm chức năng, nhiệm vụ gia đình xã hội chủ nghĩa, phải vận dụng kiến thức sẵn có; phải nhẫn nại, kiên trì, nghiêm túc, khi chấp bút, sau cùng là giọng văn trong sáng, dễ đọc…
Trong trường hợp dòng họ có gia phả gốc, viết bằng chữ Hán chắng hạn, ta dịch ra Quốc ngữ và đưa vào thành một phần của phả ký, sau đó là phần kế tục của các đời tiếp theo..
Nội dung hợp lý gồm: Phần trên nêu nội dung, ý nghĩa, sự tác động của gia phả trong đời sống dòng họ; tiếp theo ta nêu sự phát tích dòng họ; vị tổ đời một, vị tổ khai cơ nêu tiểu sử và đây chính là người sản sinh ra dòng họ; tiếp theo nêu vị trí tổ quán với cách thức nêu tuần tự từ địa chí về xóm ấp, địa lý tự nhiên rồi nêu tiếp về lịch sử xóm ấp, lịch sử các dòng họ sống chung; rồi viết về đình, miếu… Đi sâu hơn ta nêu gia đình-dòng họ là nơi “tái sản xuất ra con người”, nơi con cháu hậu duệ các đời sinh ra, để duy trì dòng giống, nâng cao trí lực, thể lực, đảm bảo tái sản xuất cho lao động xã hội. Ở đây ta có dịp thống kê từng chi đã sinh ra bao nhiêu nam, nữ; đã tổ chức cưới gả bao nhiêu họ khác với hai qui luật cơ bản là hôn nhân và di truyền.. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống cho từng gia đình trong họ: Thuở ban sơ, các
vị tiền hiền đến bám đất khai canh, trải qua các đời đã từng đảm đương kinh doanh các nghề ra sao. Chức năng giáo dục: Giáo dục tri thức, kinh nghiệm, đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách và thẩm mỹ, ý thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục đa dạng, chủ yếu là nêu gương,, thuyết phục, lấy gia phong, gia đạo để giáo dục, tự giáo dục. Ta chú ý chủ thể là các bậc ông bà, cha mẹ Chức năng thỏa mản nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm: Ở đây, những vấn đề về giới tính, về giới, về thế hệ, những sự mệt mõi trong lao động, những căng thẳng trong chiến đấu, những niềm vui cẩn sẻ chia. Gia đình – dòng họ là nơi có vai trò giải quyết, bằng vị thế hoặc ông bà, hoặc cha mẹ, hoặc anh chị, trong đó cần chú ý vai trò những bà mẹ.
Nhìn qua tổng thể dòng họ, chúng ta phải mô tả cho được vai trò của dòng họ trong lịch sử ở các khía cạnh: qua hôn nhân và di truyền đã sản sinh ra đời kế tiếp nối dõi tông đường, là dòng họ với truyền thống lao động, sản xuất, bám đất giữ làng, xây dựng sự nghiệp, là dòng họ yêu nước, yêu quê hương, là dòng họ với truyền thống văn hóa. Tính chất, đặc điểm ưu việt của dòng họ: Đây là sự đánh gia khái quát những tính chất ưu việt các mặt đã nêu. Phải quan sát, khái quát một cách sắc bén, nêu đúng bản chất
dòng họ. Có thể suy nghĩ và nêu sau cùng sau khi đã chiêm nhiệm dòng họ. Những nhược đểm, khiếm khuyết ta vẫn có thể nêu để rút kinh nghiệm trong họ, hoặc là chưa nêu chứ nguyên tắc không được làm sai lệch lịch sử dòng họ. Sau cùng là nêu phương hướng xây dựng dòng họ văn hóa với những tiêu chí của Đảng và Nhà nước ta đã chỉ ra và truyền thống dòng họ Việt Nam đã xây dựng. “Dân giàu nước mạnh - Dòng họ trường tồn - Gia đình phúc đức” là mục tiêu tồn tại của dòng họ. Gia đình Việt Nam, trên cơ sở “quan hệ bình đẳng - thương yêu - có trách nhiệm - cùng chia sẻ công việc”:
Phương pháp viết bài phả ký:
Sưu tầm tài liệu bắt đầu bằng một chuyến đi điền dã. Đây là công việc vất vả, phải đi xa và đi nhiều nơi trong dòng họ để hỏi, phỏng vấn, lấy thông tin trong các bậc lão thành hoặc người am hiểu trong họ về tiểu sử ông bà tổ, về nhà thờ tổ; khảo sát mồ mả, tìm hiểu di chúc, giấy tờ đất đai hương hỏa; quan sát địa lý xóm ấp, đình chùa, miếu mạo…
Phỏng vấn phải khéo léo, với hình thức linh hoạt vì hỏi không khéo người ta không nói, hỏi dồn dập người lớn tuổi bối rối quên mất. Có khi phải đi lại nhiều lần, vì không gặp đối tượng. Nói chung là phải kiên trì…
Sau chuyến đi điền dã, ta phải vào kho lưu trữ quốc gia, thư viên hoặc sở địa chính, tư pháp, công an…để có thêm tư liệu về đất đai, nhân thân, di chúc, hộ tịch.
Tổng hợp và xử lý tư liệu, hoàn tất bài phả ký:
Sắp xếp tư liệu theo thứ tự thời gian và theo từng loại. Dùng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để sử dụng thông tin chính xác nhất. Cần giải quyết những mâu thuẫn trong lời kể.
Bắt đầu công việc chấp bút. Trước tiên ta lập đề cương, dàn bài chi tiết (như trên), rồi dùng thể văn trần thuật, tường thuật, miêu tả, phân tích và phải cân nhắc xoáy vào trọng tâm, không để lạc đề, không cương điệu, ca ngợi quá sư thật; tôn trọng tính khoa học nhưng không đi sâu nghiên cứu làm bài viết khô khan, ngán đọc.
Các mặt tích cực và nhược điểm của gia đình phải được tôn trọng, chưa nói chứ không được nói khác đi. Với bài phả ký đòi hỏi trình độ hiểu biết về lịch sử, địa lý, dân tộc học của người đi dựng phả.
Cách thực hiện phả hệ và phả đồ:
Phả hệ là một nội dung chính của bộ gia phả, được sắp xếp sau phần phả ký, trong đó ghi tất cả bà con dòng họ (nội) của gia phả tùy theo thực tế tìm hiểu về trực hệ và bàng hệ dòng họ. Tôn trọng nguyên tắc “đích thứ – trên dưới”. Trình bày theo chiều ngang, chiều dọc hoặc kết hợp chiều ngang và chiều dọc. Ở mỗi chiều, chi trưởng, đời thứ nhất, con cả ghi trước, chi kế, đời kế, con kế ghi sau cho tới đời hiện nay. Cũng giống như việc ghi chép lịch sử, phả hệ phải trung thực, khách quan, toàn diện gồm khung tên họ, kỷ sự (tiểu sử) và các con.
- Phương pháp theo chiều ngang: Là trình bày cá nhân thành viên dòng họ theo từng đời, hết đời 1 sang đời 2, đời 3, cho đến đời hiện tại. Ưu điểm của phương pháp là giúp ta định vị được cá nhân thành viên trong dòng họ thuộc đời nào một cách dễ dàng để từ đó nhận ra vai vế của từng người. Tuy nhiên gia phả với qui mô lớn, phương pháp nầy khó theo dõi để nắm chi tiết từng chi, nhánh, hệ nào đó của gia phả.. Vì vậy, phương pháp nầy chỉ phù hợp với gia phả có qui mô nhỏ (ít đời, tổ đời 1 sinh ít con)
- Phương pháp theo chiều dọc: Là phương pháp trình bày một cá nhân thành viên và tiếp theo đó là con cái trực hệ của họ. Thí dụ ông A có 3 con là B1, B2và B3, về B1 ông nầy có có con là C1, C2 và C3, kế tiếp ghi về ông C1 có các con là D1, D2, D3…cho đến cuối. Phương pháp nầy có hiệu quả khi cá nhân từng đời ít con cái (cá nhân đông con, phương pháp nầy sẽ tạo ra manh múng).
- Phương pháp tổng hợp: Kết hợp cách trình bảy ngang và dọc. Đây là sự cắt dọc phả hệ ra thành từng phần nhỏ, ở phần nhỏ ta trình bày chúng theo chiều ngang. Những gia phả qui mô lớn, bố cục nội dung theo từng cụm, rất dễ theo dõi. Có thể đưa ra mẫu cấu trúc cơ bản của phả hệ, mẫu nầy áp dụng cho cả ba phương pháp. Cấu trúc mẫu nầy tuần tự như sau: tiêu đề phụ là dòng chữ ĐỜI I (hoặc II, III); tiêu
đề chính là dòng chữ: CÁC CON ÔNG….VÀ BÀ….
Tiếp theo là những người con của ông bà như đã nêu ở tiêu đề chính, mỗi người được đặt trong khung hình chữ nhật (là độc thân), hoặc trong hình chữ nhật được ngăn làm hai (là người có gia đình). Theo qui định, ở phía tay trái là ô để ghi người con của ông bà đó (là người của dòng họ và ở phía tay phải để ghi vợ hoặc chồng của người có tên ở ô tay trái. Nội dung trong từng ô này với những loại thông tin giống nhau, mỗi thông tin được ghi một dòng gồm: họ và tên, năm sinh và năm mất (nếu đã qua đời), ngày giỗ (tất cả lấy ngày âm lịch), mộ (với người qua đời). Ví dụ: (Trường hợp có nhiều vợ hoặc chồng thì trình bày tiếp xuống dưới cho cân đối)
Nội dung tiếp theo sau, bên dưới vuông chữ nhật nêu trên, gọi là kỷ sự. Đó là những thông tin về các thành viên nói trên và con cái của họ. Tùy đặc điểm hành trạng cá nhân, có thể chỉ năm ba dòng. Cũng có thể nhiều hơn, nhưng không nên biến nó thành một tiểu sử nhân vật, hay một bản lý lịch dài. Những thông tin tối thiểu dành cho cá nhân nầy: ngày tháng năm sinh,, quê quán, tên thường gọi, bí danh, bút danh nếu có. Tóm tắt lịch sử bản thân. Nếu qua đời, cần nêu lý do qua đời, mộ chôn ở đâu, ngày giỗ, người lo giỗ và những chi tiết khác như tuổi ta (âm lịch), sự khác nhau giữa ngày, tháng năm sinh thật so với giấy tờ hộ tịch, quá trình di dời, chuyển đổi mộ phần.
Cuối cùng là kể tên những người con, nếu con của những người nầy có những người con thuộc đời hiện tại (hoặc thuộc đời cháu ngoại cuối cùng mà gia phả đề cập) thì có thể nói gộp phần kỷ sự của họ và kể tên những người con của họ trong phần nầy
Phương pháp tiến hành: Đi điền dã.
Đặc điểm là đa số các dòng họ không có gia phả cổ (gia phả gốc), lần đầu xây dựng bộ gia phả, những thông tin cho nội dung phả hệ, chủ yếu dựa vào ký ức và thực trạng, người sống và mồ mả. Vì vậy, công tác điền dã rất quan trọng, gần như là công việc chủ yếu của người thực hiện gia phả. Qui trình rất đa dạng, phong phú với những bài học kinh nghiệm. Lời khuyên: cố gắng ghi kỷ một lượt để khỏi đi lại rất phiền. Các hình thức thu thập thông tin khác: có hai hình thức chủ yếu là mẫu khảo sát phả hệ và việc tra cứu các thông tin cần thiết.
Các loại Phả đồ
Phả đồ có thể vẽ theo bốn dạng khác nhau: Sơ đồ, Vòng tròn đồng tâm, Cây phả đồ và dạng các đường kẻ dọc. Phả đồ chỉ ghi tên những cá nhân là nội tộc, nói cách khác, đó là những người có thiên chức duy trì nòi giống của dòng họ mình, vì vậy trong phả đồ không ghi tên những đứa con của các con gái. Đây không phải quan điểm trọng nam khinh nữ, mà những người con của các con gái mang họ của chồng đã thuộc dòng họ khác rồi. Như thế, phả đồ không phải là bảng tóm tắt phả hệ. Thông thường, một gia phả chỉ có một phả hệ, trong những trường hợp đặc biệt, dí dụ gia phả quá nhiều đời, không thể thể hiện trong một bản vẽ, ngươi ta phải chia ra vẽ từng chi một, mỗi chi một phả đồ. Cũng có trường hợp gia đình chỉ cần phả đồ của một vài thế hệ nào đó, ta cũng vẽ được, song đó là ngoại lệ. Các loại phả đồ: Loại sơ đồ đạt chuẩn trình bày bằng máy vi tính không phải ai cũng thực hiên được. Ở đây chỉ giới thiệu phương pháp vẽ một sơ đồ đạt yêu cầu nội dung bằng cách vẽ trên giấy. Sơ đồ cũng tính từ trái sang phải để về thứ, từ trên xuống dưới chỉ về đời (thế hệ).
Ngoại phả: Các phần trên đã nêu là chính phả. Phần tiếp sau đây là ngoại phả. Theo Dã Lan Nguyễn Đức Dụ, ngoại phả là “phần phụ của gia phả, gồm có nhà thờ, kỵ điền v..v.”. Theo ý của định nghĩa trên, ta có thể thêm vào các phần như hành trạng của những người nổi bậc, bản đồ khu mộ, danh sách những người đổ đạt, quan hệ cưới gả với các họ..v.v.
Phụ khảo: Việc giỗ chạp là tập tục tốt, kỷ niệm ngày mất của người thân, có các lễ thức, có văn khấn, có thể làm đơn giản hoặc bề thế nhân có yêu cầu sum họp, quyết định điều quan trọng. Tất cả cần sự nghiêm túc, nhắc lai lịch hành trạng người mình cúng để con cháu nhớ. Nội dung văn khấn do người lớn trong nhà thực hiện, với nhang đèn đàng hoàng, nội dung chủ yếu là cầu mong người chết và tổ tiên phù hộ cho con cháu “bình yên vô sự, tai qua nạn khỏi, làm ăn sung túc…” Trước hết khảo về địa chí xóm ấp từ ngày xưa cho đến hiện nay, khảo về nghề truyền thống, mô tả những công trình kiến trúc tiêu biểu như đình, miếu, chợ…
Lập dàn bài cho một bộ gia phả:
Trước khi dựng bộ gia phả, ta lập dàn bài chi tiết, cấu trúc hợp lý, phù hợp với qui mô, đặc điểm dòng họ.
Phần trên đoạn: Nói mục đích, yêu cầu, vai trò, vị trí của phả trong dòng họ và trong xã hội:
+ Nuớc có sử nhà có phả, giúp cho con cháu biết rõ lịch sử dòng họ, tự hào truyền thống cha ông, sống xứng đáng với tổ tiên. Cụ thể giúp cho việc quan hệ thưa gởi đúng, ghi nhớ ngày giỗ, cưới hỏi không vi phạm….
Nội dung
1. Phả ký:
1.1. Tổ phụ và tổ quán
+ Vị tổ đầu tiên: tiểu sử vị Tổ, lai lịch, hành trạng (Nếu có gia phả cổ thì địch ra chữ Quốc ngữ rồi ghi vào)
- Bà tổ: tiểu sử của bà.
+ Tổ quán: Ở đây ta viết về địa lý lịch sử xóm ấp, nơi vị tổ đầu tiên tới khai cơ lập nghiệp, trước tiên nêu tên gọi các giai đoạn lịch sử, ranh giới hành chánh, địa lý sông ngòi, đường sá, chợ, đình chùa. Các dòng họ sống cộng cư. Địa điểm dòng họ mình đang sống, nhà thờ họ, khu mộ.
+ Vẽ bản đồ xóm ấp
+ Các thế hệ: Theo qui luật hôn nhân, ông tổ sinh ra các chi, phái, hệ số lượng là bao nhiêu, đến nay là mấy đời, tổng số con cháu, hậu duệ, đã cưới, gả với bao nhiêu họ khác.
+ Truyền thống lao động, sản xuất: xác định nghề nghiêp chính nhự nghề nông chẳng hạn: ai, đời nào có tay nghề truyền thống, mô tả chúng; ai kinh doanh buôn bán, ai viên chức.
+ Truyền thống văn hóa: Tín ngưỡng tôn giáo, truyền thống thờ cúng ông bà, chăm lo tạo phúc đuức cho con cháu, lo mồ mả, nhà thờ họ, gia phả
+ Truyền thống yêu nước: bám đất giữ làng, đi bộ đội, hoạt động cách mạng, các cá nhân tiêu biểu
+ Truyền thống xây dựng tổ ấm gia đình
1.2. Đặc điểm tính chất dòng họ và phương hướng xây dựng dòng họ văn hóa Nêu
khái quát những ưu điểm của dòng họ như sản xuất, về văn hóa, về lòng yêu nước va đề
ra những điều cơ bản để xạy dững gia đình văn hóa ngày nay.
2. Phả hệ
+ Đời thứ …..Con của ông…..và bà….
+ Khung tên họ: Khung gồm tên chồng và vợ 1, vợ 2. Ghi tên họ, dòng kế ghi năm sinh, năm mất theo âm lịch, dòng kế ghi gày giỗ, dòng cuối chi mộ chôn. Ghi tiều sử hai vị. Ghi các con theo thứ tự con trưởng, thứ hai, ba đến hết. Chú ý cách ghi ngang hay ghi dọc phải nhất quán từ đầu.
3. Phả đồ:
Phả đồ từng chi và tổng phả đô theo mẫu thường dùng
4. Ngoại phả
+ Mô tả các lễ cúng chính và văn khấn. Mô tả nhà thà thờ họ và Hội đồng gia tộc, nếu có.
+ Mô tả các khu mộ: ghi vi trí và tên người theo mộ bia.
+ Danh sách người có học vị.
+ Biểu ghi quan hệ cưới gả.
+ Danh sách ngày giỗ
+ Tiểu sử nhân vật tiêu biểu.
5. Phụ khảo:
+ Địa chí xóm ấp
+ Đình làng
+ Ngành nghề truyền thống
6. Hệ thống tên gọi Chi, Phái, Cành, Nhánh
- Dòng họ: Là các thế hệ nối tiếp nhau nhiều đời, có cùng chung một nguồn gốc tổ tiên.
- Chi họ: Là do ông Thủy tổ họ sinh ra và phân chia lần đầu thành các Chi họ
- Phái: Là từ các Chi họ tiếp tục phân chia ra thành nhiều phái.
- Cành: Mỗi phái lại phân chia ra nhiều cành.
- Nhánh: Là từ cành họ được phân chia ra nhiều nhánh
- Chi nhánh: Là từ mỗi nhánh, tiếp tục phân chia ra nhiều chi nhánh.
Bản gia phả chi cả phân chia theo “Chi, Phái, Cành, Nhánh”
Phả hệ Chi cả họ Nguyễn Duy làng Nghìn - 2013; Phái thứ nhất
Phả hệ Chi cả họ Nguyễn Duy làng Nghìn - 2013; Phái thứ hai
Phả hệ Chi cả họ Nguyễn Duy làng Nghìn - 2013; Phái thứ ba
Phả hệ Chi cả họ Nguyễn Duy làng Nghìn - 2013; Phái thứ tư

Tổng số điểm của bài viết là: 35 trong 7 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 7 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập33
  • Hôm nay1,075
  • Tháng hiện tại47,222
  • Tổng lượt truy cập808,136
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây