Nhà Hồ (hay còn gọi là Hồ triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Trần và chấm dứt khi Hồ Hán Thương bị quân Minh bắt vào năm 1407 – tổng cộng là 7 năm. Quốc hiệu Đại Việt đã đổi thành Đại Ngu năm 1400. Vậy cụ thể nhà Hồ ra đời trong hoàn cảnh nào, và trong suốt thời kì triều đại Nhà Hồ đã có những thành tựu gì? Bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn trả lời những câu hỏi trên.
1. Lịch sử ra đời của nhà Hồ:
Vào Cuối thế kỷ XIV, nhà Trần bắt đầu suy yếu và rơi vào khủng hoảng: sản xuất bị đình trệ, đói kém mất mùa xảy ra liên miên, hiện tượng nông dân bỏ làng đi phiêu tán xảy ra phổ biến. Khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Điều này thể hiện sự bất lực của nhà nước quân chủ quý tộc thời Trần.
Mặt khác, cuộc khủng hoảng còn thể hiện rõ rệt ở nhiều lĩnh vực, nhà nước bất lực trước các cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài. Cụ thể là Chiêm Thành 3 lần tấn công kinh thành Thăng Long và nhà Minh chuẩn bị xâm lược nước ta.
Bên cạnh đó, từ giữa thế kỷ XIV, tư tưởng cải cách đã bắt đầu xuất hiện trong một số quan liêu, nho sĩ mà tiêu biểu là: Lê Quát, Pham Sư Mạnh, Hồ Quý Ly… Xu hướng thời bấy giờ là làm sao thay đổi mô hình nhà nước quân chủ quý tộc, xóa bỏ kinh tế điền trang, giải phóng sức lao động của nông nô. Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng bảo thủ và cải cách diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt trong suốt 30 năm (từ năm 1370 đến năm 1400).
Đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội vào cuối thế kỷ XIV, nhà Trần tỏ ra bất lực, không đủ khả năng giải quyết. Yêu cầu đặt ra lúc bấy giờ là phải có một nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh, đủ khả năng lãnh đạo đất nước tiến hành cải cách và đánh thắng ngoại xâm.
nhân lúc nhà Trần suy yếu, không còn đủ sức giữ vai trò của mình. Vào năm 1399, một số quý tộc nhà Trần âm mưu giết Hồ Quý Ly nhưng không thành. Năm 1400, nhân lúc nhà Trần suy yếu, không còn đủ sức giữ vai trò của mình ông đã phế truất vua Trần và tự lập mình lên làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu, thành lập nên triều đại nhà Hồ (1400 – 1407). Hồ Quý Ly là một người có tài năng, chính vì thế được nắm giữ chức vụ cao nhất trong triều đình.
2. Đời sống văn hóa xã hội thời nhà Hồ:
2.1. Những chính sách cải cách của Hồ Quý Ly:
Về Chính trị: Nhà Hồ tiến hanh thay thế các võ quan, tôn thất nhà Trần bằng những người họ khác thân cận với Hồ Quý Ly và đổi tên một số đơn vị hành chính cấp trấn, quy định cách làm việc của bộ máy chính quyền.
Về Kinh tế - tài chính: bắt đầu phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng, ban hành chính sách hạn điền, quy định lại biểu thuế đinh và thuế ruộng.
Về Xã hội: Nhà nước Ban hành chính sách “hạn nô”, năm đói kém bắt nhà giàu bán thóc cho dân,…
Về Văn hóa – giáo dục: Bắt nhà sư dưới 50 tuổi phải hoàn tục, cho dịch chữ Hán sang chữ Nôm và yêu cầu mọi người phải học.
Về Quân sự: Thực hiện một số biện pháp nhằm tăng cường củng cố quân sự và quốc phòng an ninh.
2.2.Tác dụng của cải cách Hồ Quý Ly:
Chính sách cải cách của Hồ Quý Ly đã giải quyết một số khó khăn của đất nước, giúp đất nước thoát khỏi khủng hoảng; Đồng thời hạn chế tập trung ruộng đất của quý tộc, địa chủ. Làm suy yếu thế lực của nhà Trần.
Chính sách cải cách của Hồ Quý Ly còn góp phần tăng nguồn thu nhập của cả nước và tăng cường quyền lực của nhà nước trung ương tập quyền.
Cải cách văn hóa – giáo dục cũng có nhiều tiến bộ so với các thời kì trước đó.
Những hạn chế trong cải cách Hồ Quý Ly:
Một số chính sách đưa ra chưa triệt để (gia nô và nô tì chưa được giải phóng), chưa phù hợp với thực tế xã hội thời bấy giờ. Chưa giải quyết được những yêu cầu bức thiết trong cuộc sống của người dân.
3. Những thành tựu nôi bật thời nhà Hồ:
Tuy chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi hơn 7 năm, nhưng dưới thời kì nhà Hồ đất nước cũng đã có những thành tựu rất đáng tự hào
3.1. Mở rộng lãnh thổ về phía Nam, tổ chức cho nhân dân đi khai khẩn, mở mang hệ thống giao thông, thủy lợi:
Năm 1402 nhằm loại bỏ những nguy cơ xâm lấn của Champa ở phía Nam nước ta, Hồ Hán Lương đã đem quân đi đánh Champa. Vua Champa hoảng sợ, dâng Chiêm Động (Quảng Nam ngày nay). Hồ Quý Ly bắt nộp cả Cổ Lũy mới chấp thuận rút binh. Vua Champa nghe theo.
Nhà Hồ lấy hai ấp ấy lập lộ Thăng Hoa và cho dân nghèo vào khai khẩn. Hồ Hán Thương đã cho làm con đường Thiên Lý chạy từ Thanh Hóa tới Hóa Châu. Năm 1404, ông lại tiếp tục cho đào một con sông từ Tân Bình đến Thuận Hóa.
3.2. Về kỹ thuật, quân sự:
Hồ Nguyên Trừng là một vị tướng lỗi lạc của nhà Hồ đã chế tạo thành công súng thần cơ, nhiều kích cỡ và rất hiện đại. Chế tạo được thuyền 2 tầng.
3.3. Công trình đặc biệt thành nhà Hồ:
Đặc biệt công trình kiến trúc Thành nhà Hồ (hay còn gọi là thành Tây Đô, thành An Tôn, thành Tây Kinh hay thành Tây Giai) là kinh đô nước Đại Ngu (quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ), nằm trên địa phận nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, công trinh này có giá trị và độc đáo nhất, duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và còn là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới hiện nay. Thành nhà Hồ được xây dựng trong thời gian ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397) và cho đến nay, dù đã tồn tại hơn 6 thế kỷ nhưng một số đoạn của tòa thành này còn lại tương đối nguyên vẹn.
4. Các vị vua thời Nhà Hồ:
Nhà Hồ được thành lập, lấy Quốc hiệu là Đại Ngu, kinh đô Tây Đô (Thanh Hóa), trải qua 7 năm tồn tại, với 2 đời vua
4.1. Hồ Quý Ly (Thánh Nguyên, 1400-1401):
Hồ Quý Ly tự là Thánh Nguyên, là cháu thứ 16 của đời Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, vốn gốc thuộc tộc Việt ở Chiết Giang, phương nam Trung Quốc, đời Hậu Hán (thời Ngũ Quý) sang làm Thái thú Diễn Châu, sau định cư ở hương Bào Đột (Nghĩa Đàn, Nghệ An).
Ông là một nhân vật thông minh lỗi lạc, Hồ Quý Ly đã đề ra nhiều cải cách táo bạo. Ông ra sách Minh Đạo để phê phán hệ tư tưởng Tống Nho, phục vụ cho những cải cách mới như hạn điền, hạn nô, sa thải tăng lữ để hạn chế phong kiến quý tộc, đồng thời tăng thêm lực lượng lao động xã hội góp phần giải phóng sức sản xuất, sức lao động.
Nhà Hồ đã tiến hanh cho đo đạc lại ruộng đất, điều tra dân số để nắm chắc tài sản và sức lao động toàn xã hội, phát hành tiền giấy, giải quyết khó khăn về tài chính quốc gia và thuận tiện cho việc lưu thông hàng hoá.
Việc Cải cách chế độ thi cử, mở mang việc giáo dục, để đào tạo nhân tài, lập Quảng tế thự để chữa bệnh cho nhân dân đều là những cải cách tiến bộ thời kì này.
Nhà Hồ còn quy định ra hình luật để củng cố, tăng cường bộ máy và quyền lực của triều đình trung ương, quan tâm đến giao thông thủy lợi, đào sông, đắp đường thiên lý, đặt phố xá, đặt trạm công văn.
Về mặt quân sự thì Hồ Quý Ly tăng cường quân đội thường trực, xây dựng các tuyến phòng thủ, lập xưởng đúc binh khí kỹ thuật để chống giặc phương Bắc.
Các cải cách mà Hồ Quý Ly thực hiện có tính chất toàn diện, có những cải cách đi trước thời đại, giá trị thực tiễn của nó đến nay vẫn còn hấp dẫn, nhiều nhà kinh tế nước ngoài đã ca ngợi Hồ Quý Ly là một nhà cải cách kinh tế lớn. Tuy nhiên Hồ Quý Ly mắc tội giết vua Thiếu Đế cùng tôn tộc và quan lại nhà Trần, kể cả tướng Trần Khát Chân, gồm hơn 370 người để cướp ngôi nhà Trần. Do vậy ông bị nhân dân oán hận. Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, Hồ Quý Ly đã không tập hợp được lực lượng toàn dân đánh giặc, vì vậy mà cả hai bố con Hồ Quý Ly đều bị quân Minh bắt đem về Trung Quốc.
4.2. Hồ Hán Thương (1401-1407):
Vào ngày 12/1/1401, Hồ Quý Ly đã nhường ngôi cho người con thứ hai là Hồ Hán Thương, còn mình thì tự xưng là Thái Thượng hoàng cùng coi chính sự.
Hồ Hán Thương là con công chúa Huy Ninh, cháu ngoại của vua Trần Minh Tông.
Hồ Quý Ly nhường ngôi cho Hồ Hán Thương, nhưng ông vẫn tự mình quyết đoán mọi việc.
Nhà Minh đã lấy cớ Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, đem quân sang đánh chiếm với âm mưu nước ta.
Tháng 9/1406, Nhà Minh đã sai Tân Thành hầu Trương Phụ đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Pha Luỹ (tức là Hữu Nghị quan ngày nay).
Nhà Minh còn sai Tây Bình hầu Mộc Thạnh cũng đem theo 40 vạn quân đánh vào cửa ải Phú Lệnh (gần thị xã Hà Giang ngày nay).
Tháng 12 cùng năm, quân Minh đã chiếm được khu Việt Trì. Nhà Hồ chống giữ không nổi 80 vạn quân Minh, đã bỏ chạy vào Thanh Hoá.
Ngày 20 /1 /1407, quân Minh hạ thành Đa Bang (Ba Vì), bố con Hồ Quý Ly bỏ chạy vào Thanh Hoá, đến ngày 17/6/1407, quân Minh bắt được hai cha con Hồ Quý Ly. Một lần nữa đất nước ta lại bị nhà Minh đô hộ với một chính sự vô cùng hà khắc. Chúng vơ vét của cải, hãm hiếp đàn bà, con gái, giết đàn ông và còn thiến hoạn nhiều con trai nhỏ tuổi, để mong đồng hóa dân ta.
5. Vai trò của Nhà Hồ trong lịch sử nước nhà:
Tuy chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi, nhưng những đóng góp to lớn cùng với chính sách cải cách kinh tế, văn hóa, xã hội thời kì này cũng đã góp phần xây dựng đất nước, chống lại ngoại xâm và các chế độ phong kiến. Đây cũng là bước đà nền tảng trong sự nghiệp chống ngoại xâm giành lại độc lập, tự do cho đất nước ta sau này.
Nhà Hồ đã trở thành một phần trong sử dựng nước và giữ nước của của dân tộc Việt Nam và là một mắt xích không thể thiếu để hình thành nhà nước Việt Nam của chúng ta ngày hôm nay.