Từ ngàn năm nay hình ảnh "Cây đa- giếng nước- sân đình" đã sớm đi sâu vào đời sống văn hóa của người Việt Nam. Bộ ba "Cây đa- giếng nước- sân đình" gắn bó thủy chung son sắc như người bạn tâm giao với cư dân miền nông nghiệp lúa nước. Có thể nói ở đâu có "cây đa" là có "giếng nước" hoặc "sân đình" và ở đó có sự giao lưu, sinh hoạt, trao đổi hay nói khác hơn là ở đâu có con người sinh sống thì ở nơi đó có sự hiện hữu của bộ ba biểu tượng này. Ca dao việt nam có câu: "Cây đa cũ bến đò xưa, bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ", "Trèo lên quán dốc cây đa, gặp chị bán rượu say đà thêm say" hay " Dời chân bước xuống lễ đình, họa chăng có gặp bạn tình hay không",... nhưng vì sao và do đâu mà nó gắn kết với đời sống của người dân đến vậy? Phải chăng ở đây có cái gì đó gắn kết con người lại với nhau để từ đó chúng ta lại có một cái nhìn mới hơn và toàn diện hơn về những hình ảnh biểu trưng này? Trong tâm thức của mỗi người Việt, làng xóm thật gần gũi và gắn bó. Làng là nơi ta cất tiếng khóc chào đời, là tiếng võng kẽo kẹt trưa hè với lời ru ầu ơ của mẹ mà khi nhớ lại như nâng bước ta trên mọi nẻo đường. Làng với những hình ảnh tiêu biểu như cây đa, bến nước, sân đình, là lũy tre xanh bao bọc, là sừng sững một cổng làng hay ngào ngạt hương sen nơi ao làng. Những đêm trăng thanh gió mát, trai thanh gái lịch đi gánh nước ở giếng làng, hay tụ tập nơi đình làng. Họ gặp nhau và những lời tỏ tình thấm đẫm ánh trăng được nhen lên từ đó... tất cả trở thành nỗi thân thương, là ký ức về một niềm quê yêu dấu của mỗi con người. Làng thân thương và gắn bó với mỗi người và nó được gắn bó từ những nét đặc trưng nhất như cây đa, giếng nước, mái đình. Giếng làng là nơi các thôn nữ ra gánh nước, soi mình làm duyên, nơi trai gái tâm tình hò hẹn. Nơi giao lưu gặp gỡ của những người dân nơi làng quê mỗi khi ra gánh nước về dùng. Nông thôn Việt Nam xưa phần nhiều là nhà tranh, do đó rất ít nhà có bể nước mưa, người làng chủ yếu dùng nước giếng công cộng để nấu ăn. Cái giếng tượng trưng cho sự trong sạch, mát mẻ, giúp quên đi sự mệt nhọc và cái khát. Trong cái tổng thể của văn hóa làng quê bình dị mà lung linh huyền ảo ấy, cây đa có thần, mái chùa có phật thì giếng nước là sự tượng trưng cho sự dồi dào sung mãn và cho nguồn gốc của sự sống. Đối với trong tâm thức của mình, người Việt có thể sống thiếu hạt gạo mỗi khi giáp hạt, thiếu áo mặc mỗi khi mùa đông giá rét, nhưng không thể thiếu cái giếng nước. Giếng không chỉ là mắt của đất, nó còn là trái tim của làng, là cái hồn của xóm. Cây đa là cây cổ thụ tiêu biểu, trong một làng có một số cây cổ thụ khác cũng được coi như cây đa, như cây đề, cây gạo, cây trôi, cây bàng, cây si, cây thông… Và thường cây đa được trồng gần mái đình – tượng trưng cho nơi linh thiêng trấn giữ cho cả làng. Cây đa cổ thụ ở làng tỏa bóng mát che ánh nắng mặt trời cho những người nông dân lao động sau một buổi cày bừa khó nhọc trên cánh đồng; cho những bà, những chị đi chợ về dừng chân nghỉ; cho những người lữ thứ bộ hành, cho những người gồng gánh buôn bán kiếm ăn,…. Dưới bóng cây đa, họ có thể vừa nghỉ ngơi để uống bát nước chè xanh, ăn bửa trưa với bát cơm nắm và chút muối vừng mang theo; trao đổi nhau về những đồng ruộng, chuyện mùa màng, thời tiết, chuyện làm ăn, buôn bán. Không những thế đó còn là nơi nghỉ ngơi hóng mát của các cụ già, hay là nơi họp của cả làng, nơi tổ chức những ngày hội hè đình đám… Đó là chưa kể cạnh gốc cây đa nào trong làng trai gái thường hò hẹn gặp gỡ nhau, trao duyên gửi phận cho nhau mà mà còn hò hẹn tập trung để đi củi, đi làm thuê; trẻ con thường đánh cù, đánh đáo,… chơi cùng nhau và không ít cuộc hát ví, hát ghẹo dưới đêm trăng thường diễn ra bên cạnh gốc cây đa làng. Và mái đình là nơi linh thiêng nhất, thờ vị thần trấn giữ bình yên cho cả làng. Đó là nơi tín ngưỡng, để dân làng tụ tập trong những ngày lễ hội, là nơi hương khói và hội bàn việc dân việc nước. Cây đa, giếng nước, mái đình do đó đã ăn sâu vào tâm khảm những người con đất Việt, không chỉ là biểu tượng của làng quê chốn yên bình mà còn là nơi gắn bó máu thịt trong tâm hồn mỗi người