Lên ngôi cao trị vì thiên hạ, mệnh đế vương của vua Trần Thái Tông, từng được báo trước. Và trong thời trị vì của ngài, vẫn còn lắm chuyện để kể.
Nhà Trần, kể ra trong 175 năm, cũng được khen là có tiếng tố, nên “Quốc sử ngâm” mới có lời rằng:
Vua Trần làm chúa non sông,
Nổi danh thịnh trị anh hùng vẻ vang.
Lại riêng về chuyện vua Trần. Chuyện của các bậc đế vương thì nhiều lắm, toàn những thâm cung bí sử hoặc huyền tích bao quanh nhưng cũng có lúc rất đời thường như bao kẻ phàm tục khác. Tỉ như dăm chuyện dưới đây của Trần Thái Tông…
Suýt bỏ mình nơi đất Tống
Trần Thái Tông là vị vua khai mở nhà Trần, nhìn tổng quan được xem là ông vua minh, trị vì đất nước cẩn trọng, mở nền cho các hậu quân cai trị. Hãy xem, trong “Đại Nam quốc sử diễn ca” còn để lại lời ca tụng:
Cao minh đã có tư trời,
Lại thêm Thủ Độ vẽ vời khôn ngoan.
Sung văn tô tượng Khổng, Nhan,
Dựng nhà Quốc học, đặt quan Giám thần.
Bảy năm một hội thanh vân,
Anh tài náo nức dần dần mới ra.
Nhưng, cũng có lúc vua “đột xuất” suy nghĩ chưa chín mà có lần suýt làm hại đến thân mình.
Việc ấy, xảy ra tháng 10 năm Tân Sửu, (1241). Dạo ấy, người Thổ, Mán từ bên kia biên giới phía Bắc của nhà Tống sang cướp vùng ven nước ta. Biết được việc ấy, nhà vua hạ lệnh cho viên Đốc tướng là Phạm Kính Ân đem quân đi dẹp chúng, đánh cho tan tác. Vua lại thân hành cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An (giáp Móng Cái), Vĩnh Bình (giáp Lạng Sơn) của nhà Tống phía đường bộ, vượt qua châu Khâm, châu Liêm, tự xưng là Trai Lang, bỏ thuyền lớn ở trong đất người, chỉ đi bằng các thuyền nhỏ Kim Phụng, Nhật Quang, Nguyệt Quang. Người châu ấy không biết là vua, đều sợ hãi chạy trốn. Đến sau biết là vua mới chăng xích sắt giữa sông để chặn đường thủy. Khi trở về, vua sai nhổ lấy vài chục cái neo đem về.
Việc làm của vua bị Ngô Thì Sĩ phê trong “Việt sử tiêu án”, rằng: “Vua Thái Tôn đi lần này thật là cuồng bậy, bất quá muốn xem sông núi ở nội địa Tống, cho là người Tống chả làm gì được, chung quy vì sự đi chơi này mà suýt bị người Tống làm khốn, thoát được miệng hùm là may đó, có phải là còn huyết khí thiếu niên, chưa được định tính đó chăng?”. Còn các sử quan nhà Nguyễn thì viết trong “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” là: “Việc này là việc làm nguy hiểm cầu may, không theo đạo điển thường như cổ nhân đã nói "thánh chúa bất thừa nguy”.
Nằm mộng chọn được hành khiển
Theo “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” việc này xảy ra vào tháng 10 năm Giáp Dần (1254). Nguyên do sự cớ ra sao?
Số là “Nhà vua chiêm bao thấy mình đi chơi, gặp thần nhân trỏ vào một người mà bảo vua rằng: “Người này có thể làm hành khiển được”. Lúc tỉnh dậy, nhà vua ghi lấy việc ấy. Một hôm, sau khi tan chầu rồi, vua ra chơi ngoài thành, thấy một người con trai đi từ phía nam lại, trông hệt như người mà mình đã thấy trong lúc chiêm bao. Gọi lại hỏi, người ấy đối đáp cũng như những lời đã nói trong lúc chiêm bao. Ý nhà vua muốn cho làm Hành khiển, nhưng nghĩ khó khăn không biết làm thế nào cho hợp lệ, liền ban cho bốn trăm quan tiền để tự thiến mình, đặt tên cho là Ứng Mộng, sau thăng dần lên đến chức hành khiển”.
Thời Trần, Hành khiển là chức Tể tướng thứ hai. Theo chế độ cũ, chỉ có trung quan, tức hoạn quan mới được sung vào chức này. Phạm Ứng Mộng vốn người huyện Thanh Miện, đất Hồng Châu (thuộc Hải Dương ngày nay), thuộc dòng dõi của danh tướng Phạm Tu, người được xem là thủy tổ của dòng họ Phạm.
Khi gặp vua Trần Thái Tông, Phạm sinh đang là một học trò theo học ở phía Nam thành Thăng Long. Vì trùng với dáng hình trong mộng của vua mà dần lên ngôi cao Hành khiển. Âu cũng là cái duyên con tạo xoay vần sắp đặt. Nhưng kể ra, chọn người mà dựa vào mộng để rồi thăng đến chức cao tột đỉnh trong hàng quan viên thì đúng là cách chọn người của vua Trần Thái Tông cũng thuộc dạng xưa nay hiếm. Hay vua bắt chước lệ cũ của triều Lý, dùng Lý Thường Kiệt và Lý Thường Hiến vậy?
Đời vua Trần Dụ Tông nhà Trần, cũng có một Phạm Ứng Mộng khác được nhắc tới, nhưng không phải Hành khiển Ứng Mộng được nói ở trên vì sống cách xa nhau cả hơn trăm năm. “Đại Việt sử ký toàn thư” còn chép lại một việc về Phạm Ứng Mộng, liên quan tới bệnh tình và sự băng hà của Thái Thượng hoàng Trần Minh Tông năm Đinh Dậu (1357): “Khi se mình, triều đình muốn lập đàn chay cầu đảo, Minh Tông biết chuyện, gọi Hữu tướng quốc Phủ (vua Nghệ Tông sau này - người dẫn chú) vào chỗ nằm để hỏi. Vua sợ lập tức bảo Phủ là Phạm Ứng Mộng xuống nghị xin lấy mình chết thay. Phủ đem câu ấy tâu lên, Minh Tông nói: - Ứng Mộng tự nhận làm địa vị Chu Công thì cứ lấy thân mình mà chết thay cho cha hắn, còn đàn chay thì không được làm.
Bấy giờ Hiến Từ thái hậu phóng sinh các giống súc vật để cầu cho Minh Tông khỏe lại. Minh Tông bảo bà: “Thân ta không lấy con lợn, con dê mà đổi được”.
Lấy con quan Tống
Sự thể là, vua Trần Thái Tông và Hoàng hậu Chiêu Thánh lấy nhau, đã lâu không có con, năm Đinh Dậu (1237) (lúc đó hai vợ chồng vua cũng mới tuổi xuân xanh, chồng chẵn đôi chục, vợ 19), Trần Cảnh chịu sức ép của Trần Thủ Độ mà cướp chị dâu, vợ của anh mình là Hoài vương Trần Liễu về làm vợ (tức Thuận Thiên Hoàng hậu sau này) khi đang mang thai con của Trần Liễu là Quốc Khang được ba tháng, để dòng giống nhà Trần không bị dứt. Trước đó, Thuận Thiên công chúa vợ Trần Liễu đã có cùng Trần Liễu một con trai là Doãn.
Sau này, Hoài vương Liễu được phong đất Yên Phụ (nay thuộc huyện Kim Môn, tỉnh Hải Dương), Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay là huyện Đông Triều, Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh), làm Yên Sinh vương; còn Doãn thì được phong là Vũ Thành Vương. Tháng 6 năm Mậu Thân (1248), Thuận Thiên Hoàng hậu mất, được truy tôn là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng thái hậu. Rồi ngày 1 tháng 4 âm lịch Tân Hợi (tức 23 tháng 4 năm 1251) Trần Liễu cũng từ biệt dương gian.
Bị thất thế, không có nơi nương tựa, đỡ đầu nên tháng 7 năm Bính Thìn (1256), Vũ Thành Vương Doãn đem cả gia quyến trốn sang nước Tống những mong tị nạn nơi đất khách. Tuy nhiên việc đào thoát không thành, bởi như “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” cho biết, Vũ Thành Vương Doãn bị “viên quan bản thổ ở Tư Minh là Hoàng Bính bắt được đưa trả lại, nhà vua (Thái Tông - người dẫn chú) ban vàng lụa thưởng cho Hoàng Bính. Từ bấy giờ việc xét hỏi quan ải ngày thêm nghiêm mật”. Cũng theo lời chua trong “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” thì Vũ Thành Vương Doãn đã chạy sang đất Tư Minh, thuộc phủ Thái Bình tỉnh Quảng Tây, giáp với tỉnh Lạng Sơn nước ta.
Cũng trong thời gian này, Mông Cổ ngày càng mạnh lên, quan viên nhà Tống nhiều người thấy trước nguy cơ mất nước nên tìm cách Nam tiến vào Đại Việt hay Chiêm Thành để tránh đại họa. Một năm sau sự kiện trên, do có công với nhà Trần trong vụ Vũ Thành Vương Doãn, nên như “Đại Việt sử ký toàn thư” cho hay “Đinh Tỵ (1257). Mùa xuân, tháng 2, Hoàng Bính đem cả nhà đến cửa khuyết, dâng con gái vào cung. Vua nhận, sách phong làm Huệ Túc phu nhân”. Sau Hoàng Bính lại đem dâng phẩm vật ở địa phương và đem một ngày hai trăm người bộ thuộc đến nước ta xin quy phụ.
Dù vậy, tháng 12 cùng năm, quân Mông Cổ ruổi vó ngựa về Nam xâm lấn Đại Việt, vị bố vợ này của Trần Thái Tông vẫn không tránh thoát khỏi kiếp nạn chết dưới tay quân Mông. Còn Huệ Túc phu nhân con gái ông thì sau không thấy sử nhắc đến nữa...
Tác giả bài viết: Nguyễn Duy Rằm
Nguồn tin: Sưu tầm
Ý kiến bạn đọc