1. Quá trình hình thành làng Đông Linh
Làng Đông Linh, dân gian quen gọi là làng Nghìn nằm trên lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình. Theo các cụ cao tuổi trong làng kể lại và nội dung ghi trong bia “Cư nhân đình bi ký” thì: hơn một ngàn năm trước vào thế kỷ thứ VIII Đông Linh còn là một vùng đầm hồ, nước ngập mênh mông, chỉ có vài gò cao nhô lên khỏi mặt nước… khắp nơi cỏ cây lau sậy um tùm, có nhiều ngòi lạch khe nước chằng chịt. Những người đầu tiên đến vùng đất này, một số sống trên các gò cao, khai phá đầm cạn cấy lúa, một số sống ở sông, hồ trên các thuyền mủng bắt tôm, bắt cá làm khô mắm để bán.
Khoảng hơn 250 năm sau (cuối thế kỷ VIII - thế kỷ XI) số người đến ở có hơn chục nhà, vài chục người, sau số người đến đông dần, họ lập thành làng gọi nôm na là làng Nghìn, cái tên ấy đã gắn bó với dân làng hơn một nghìn năm nay. Làng Nghìn là nơi đón tiếp các thuyền buôn từ Đế Đô, Kinh kỳ, Phố Hiến xuôi về các bến Địa Đầu, Đài Thần, Bến Đó để trao đổi hàng hóa.
Thời Lý, đầu thế kỷ XII, làng Nghìn thuộc xã Địa Linh. Một vị quan họ Phạm người huyện Gia Lâm đạo Kinh Bắc về lập trang Địa Linh, đã có công giáo hóa cho dân làng Nghìn chuyển từ nghề đánh cá, bắt cá, lấy củi sang cấy lúa trồng khoai, ngô, lạc, đậu, dưa, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải lụa. Sang thế kỷ XIII làng Nghìn có đình Trạm, Linh Ứng tự (chùa Nghìn), có Giảng võ đường, có Văn học đường (sau là văn chỉ), lúc này làng Nghìn đã có 4 họ lớn. Đến thời Trần, làng Nghìn là làng La Ngạn và đã có 8 họ lớn. Để ghi nhớ công ơn của vị quan họ Phạm người dân Đông Linh đã phong cho họ Phạm là một trong “ bát thị tính tiên tổ” của làng.
Thời Lê, thôn La Ngạn đổi thành xã Đông Địa Linh thuộc tổng Địa Linh, văn bia “Cư Nhân đình” năm Vĩnh Hựu, cống sĩ Ngụy Năng Xưởng viết “Ngô Hưng cư Địa Linh chi đông, rãi dĩ đông chi nhất tự quán ư Địa Linh chi thượng nhi xã yên” (Nghĩa là: Làng ta ở phía đông xã Địa Linh, bèn lấy chữ đông đặt trên chữ Địa Linh gọi là xã Đông Địa Linh vậy). Thời Nguyễn dưới triều vua Tự Đức (1868) Đông Địa Linh đổi thành Đông Linh. Trải qua nhiều biến động thăng trầm của lịch sử tên làng Đông Linh vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay.
Dấu tích làng xưa là vùng đầm hồ, gò đống còn thấy ở tên gọi các cánh đồng chỉ có đầm và rộc: Đầm Kênh, đầm Lại, đầm Trong, đầm Cuối, cánh Buồm, rộc Muội, rộc Xanh… và các gò Cái Dù, Cái Hạc, Cỗ Ngựa, Mả Mèn… Làng Đông Linh hiện có 594 hộ, với 2106 khẩu (2010, theo số liệu thống kê của xã An Bài) thuộc hơn chục họ khác nhau. Nhưng tại đình làng chỉ lập bài vị thờ Bát thị tính tiên tổ gồm các họ Phạm, Ngụy, Đàm, Hà, Nguyễn, Vũ, Bùi, Đỗ mà xa xưa tổ tiên họ là những người mở đất lập làng.
Đông Linh nằm cạnh sông Hóa, con sông đã chứng kiến bao chiến tích trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là dưới thời Trần, trong một lần Trần Hưng Đạo cho đại binh vượt sông Hóa tiến về Bạch Đằng lập trận địa thủy chiến chống quân Nguyên xâm lược. Lần ấy hàng vạn tướng sĩ và dân phu chuẩn bị vượt sông thì trời mưa lớn, Trần Hưng Đạo cho dừng binh và cầu đảo, trời sáng mát trở lại. Ông phấn khởi đặt tên cho sông Hóa là sông Linh Giang (sông linh thiêng). Vì vậy trong lịch sử, Đông Linh sớm trở thành một trung tâm giao lưu, trao đổi, buôn bán giữa xứ Đông (Hải Dương) với xứ Nam (Thái Bình), giữa xứ Bắc với vùng biển. Các bến sông Địa Đầu, Đài Thần ở làng có lịch sử hàng ngàn năm. Dân làng Đông Linh ngoài làm ruộng đã sớm biết trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, kéo sợi dệt vải, trồng đậu, lạc, đay, khoai, sắn… Vì vậy, từ xa xưa Đông Linh đã trở thành một vùng quê trù phú, nhân dân sống no đủ, vui tươi.
Nhà Thờ Tổ Họ Nguyễn Duy Làng Nghìn
2. Truyền thống lịch sử
Từ xa xưa, người dân Đông Linh có truyền thống yêu nước, đánh giặc ngoại xâm quyết tâm giữ làng, giữ nước. Ngay từ khi lập làng, người dân Đông Linh đã phải chiến đấu chống lại các cuộc cướp phá, quấy nhiễu của bọn thổ phỉ. Trong đêm trường Bắc thuộc, người dân Đông Linh cùng với người dân cả nước bền bỉ đấu tranh làm thất bại chính sách đồng hóa của bọn phong kiến phương Bắc đô hộ, nuôi dưỡng ý chí đấu tranh. Phong trào đấu tranh chống Bắc thuộc bùng nổ mạnh mẽ vào năm 40 thế kỷ thứ nhất, khi Hai Bà Trưng dấy binh khởi nghĩa đền nợ nước trả thù nhà. Hưởng ứng lời kêu gọi của hai Bà, người dân Đông Linh dưới sự lãnh đạo của Đào Hùng, Đào Dũng, Đào Lược ở An Bệ đã đấu tranh lật đổ chính quyền đô hộ địa phương, sau đó kéo quân đến hợp sức với quân của Hai Bà Trưng góp phần vào thắng lợi của hai Bà. Đến thế kỷ thứ VI, khi Lý Bôn dựng cờ khởi nghĩa, nhiều người con Đông Linh đã đi theo lá cờ khởi nghĩa của ông để đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước.
Bước sang thời kỳ độc lập tự chủ, trong hai lần đấu tranh chống Tống vào các năm 918 và 1076 đều có sự góp sức của cư dân Quỳnh Phụ, trong đó có cư dân Đông Linh. Trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược, người dân Quỳnh Phụ trong đó có dân làng Đông Linh đã cùng với Trần Hưng Đạo và các tướng lĩnh lập doanh đồn ven sông Hóa và sông Luộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược góp phần vào thắng lợi chung của cả nước tạo nên một “hào khí Đông A” vang dội một thời.
Phong trào chống giặc ngoại xâm của cư dân làng Đông Linh vang dội nhất là trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Sự bóc lột, cướp phá, cưỡng bức cư dân làm nô lệ, đốt sách vở, tàn phá chùa chiền rất dã man của quân Minh khiến người dân rất căm phẫn. Nên ngay từ những năm 1414, ở Đông Linh có bảy anh em họ Phạm là Phạm Bôi, Phạm Du, Phạm Châu, Phạm Quý, Phạm Lưu, Phạm Quỳnh, Phạm Khuê đã lập căn cứ kháng Minh. Góp sức cho căn cứ kháng chiến này có tới 500 binh sĩ, lập thành sáu đồn binh. Trung đồn do Phạm Bôi làm chỉ huy. Các tiểu đồn: Đường Lâu, bến Đại Thần, bến Đó, cửa Chùa, xứ Sài do các ông Phạm Du, Phạm Châu, Phạm Quỳnh, Phạm Lưu, Phạm Khuê trấn giữ. Cư dân Địa Linh đã đào hào, đắp lũy, sắm khí giới phối hợp cùng nghĩa quân chiến đấu, quyết không đi phu, đi lính cho giặc.
Năm 1416, tại hội thề Lũng Nhai, Lê Lợi cùng 18 chí sĩ trong đó có Phạm Bôi đã quyết tâm khởi nghĩa diệt Minh. Phạm Bôi đã hợp quân của mình vào với quân của nghĩa quân Lam Sơn, tham gia nhiều trận đánh quan trọng như vây thành Nghệ An, tạo thuận lợi cho đại binh của Lê Lợi giải phóng các vùng xung quanh. Năm 1424, trước sức tiến công của đại binh Lê Lợi, quân địch phải co cụm lại ở thành Đông Quan (Hà Nội) và một số thành nằm trên đường Hà Nội - Lạng Sơn, Phạm Bôi và Trần Lực được lệnh vây hãm thành Khâu Ôn (Lạng Sơn). Phát hiện âm mưu của giặc vờ xin hòa để xin viện trợ, được lệnh của Lê Lợi, Phạm Bôi đã lãnh đạo nghĩa quân của mình hạ thành Khâu Ôn giành thắng lợi.
Tháng 9/1426 Phạm Bôi và sáu anh em họ Phạm đã kéo quân về giải phóng huyện Đa Dực, cư dân Đông Linh đã nổi dậy hưởng ứng lật đổ chính quyền thống trị của quân Minh ở địa phương, quân địch ở đây bị đè bẹp nhanh chóng. Đến cuối năm 1427, 15 vạn quân Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạch chỉ huy hùng hổ vượt biên giới Lạng Sơn vào nước ta. Phạm Bôi và Trần Lực vừa đánh địch vừa rút lui gây cho địch nhiều tổn thất và khó khăn, sau đó nhử Liễu Thăng vào tận địa mai phục sẵn của quân ta ở ải Chi Lăng. Tại đây, Liễu Thăng và đội quân của y bị diệt gọn. Mộc Thạch nghe tin bỏ về nước, Vương Thông kinh hoàng phải đầu hàng.
Cuộc kháng chiến chống Minh giành thắng lợi có sự góp sức không nhỏ của nhân dân và các tướng lĩnh người Đa Dực, trong đó có cư dân làng Địa Linh. Vua Lê Thái Tổ đã phong chức Tư mã cho Phạm Bôi, đứng thứ 27 trong số 93 công thần khai quốc, Phạm Bôi được mang dòng họ vua là Lê Bôi. Phạm Du được phong làm Tham tán quốc sư; Phạm Châu được phong làm Thủy trào đại đốc vận; Phạm Qúy, Phạm Quỳnh làm Trung ương thiên trưởng thiên quan tọa. Bảy anh em họ Phạm về Địa Linh xóa bỏ chế độ điền nô, cấp ruộng cho dân cày, lập ra các thái ấp. Sau khi đánh đuổi giặc Minh, Tư mã Phạm Bôi được cử làm tổng quản vệ quản Tây đạo, trực tiếp chỉ huy quân trấn Nghệ An, ông đã dẹp loạn ở phía tây Nghệ An giành thắng lợi. Vua điều ông về làm Tổng quản vệ quản Đông Đạo.
Năm 1442, vua Lê Thái Tông mất, triều đình rối ren. Thái tử Bang Cơ cùng mẹ là Nguyễn Thị Anh được Phạm Bôi, Nguyễn Xí… bảo vệ đưa về ẩn náu ở Neo (Đồng Tiến, Quỳnh Phụ). Phạm Bôi và các tướng lĩnh lập lại trật tự triều đình, đưa Bang Cơ về làm vua lấy hiệu là Lê Nhân Tông (1443-1459). Vua Lê Nhân Tông phong cho Phạm Bôi là “Nhập nội kiểm hiệu Thái Bảo”. Năm 1444, Thái bảo Phạm Bôi và Tổng quản Lê Khá đem quân đến Châu Hóa đánh bại giặc Chiêm Thành. Năm 1459, vua Nhân Tông bị sát hại, Phạm Bôi và sáu anh em họ Phạm về quê Địa Linh tập hợp 800 quân sĩ kéo về Thăng Long cùng các tướng khác lập lại trật tự triều đình. Các tướng Phạm Quý, Phạm Quỳnh, Phạm Khuê và con trai Phạm Bôi là Phạm Dư đã chống trả bọn phản nghịch và bị tử trận. Sau khi bọn phản nghịch bị đè bẹp, hoàng tử Hạo được suy tôn lên làm vua lấy niên hiệu là Lê Thánh Tông (1460 - 1497). Lê Thánh Tông đã ban chức tước cho Phạm Du là Thái Bảo, Phạm Châu là Tả bộc xạ, Phạm Lưu là Đô đài đại phu. Bốn ông Phạm Quý, Phạm Quỳnh, Phạm Khuê, Phạm Dư bị tử trận được truy phong và cấp ruộng đất thế nghiệp.
Đến tháng 9/1470, vua nước Chiêm Thành đánh úp Châu Hóa, sát hại dân thường dã man. Vua Lê Thánh Tông giao cho Phạm Bôi giữ chức vụ “Cử binh tiền phong”, đôn đốc, kiểm tra quân tiên phong; Phạm Châu làm Thống đốc thủy bộ đại tướng quân; Phạm Lưu làm Điều binh lương vũ lộ. Tất cả cùng hợp sức đánh Chiêm Thành giành thắng lợi. Để ghi nhớ công lao của các ông, nhân dân Địa Linh đã lập đình thờ các ông và tôn vinh Phạm Bôi là Thành Hoàng làng.
Sau những chiến thắng lẫy lừng đánh đuổi giặc Minh, đến đầu thế kỷ XVI, triều Lê suy yếu, vua Lê sa đọa, triều đình rối ren, cục diện Nam - Bắc triều, Trịnh - Nguyễn phân tranh. Không bằng lòng với sự suy thoái của chế độ, nhiều nho sĩ ở Đông Linh đỗ đạt không chịu ra làm quan hoặc làm quan được một thời gian thì xin từ quan về ở ẩn, sống cuộc sống thanh bạch, dạy học bốc thuốc cứu dân.
Khi đất nước bị chia cắt, cuộc chiến giữa đàng Trong với đàng Ngoài khiến cho dân chúng lầm than khổ cực. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra chống lại sự thối nát của chính quyền Lê - Trịnh, trong đó tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu đã lôi kéo được đông đảo người dân Đông Linh tham gia. Năm 1749, Nguyễn Hữu Cầu đã sát nhập với quân của Bùi Đá kéo quân về lập doanh đồn ở làng La Ngạn, được sự ủng hộ của nhân dân làng Nghìn và các làng xung quanh Nguyễn Hữu Cầu đã lãnh đạo nghĩa quân đánh úp đồn binh của chúa Trịnh ở Quỳnh Côi, tấn công vào Ngự Thiên nơi có Hoàng Ngũ Phúc là tướng của chúa Trịnh, thống lĩnh kỳ binh ở đạo Hải Dương. Hoàng Ngũ Phúc đem quân vây đánh căn cứ La Ngạn, tàn sát và đốt phá rất dã man gây nên sự căm phẫn trong lòng dân chúng. Sự thối nát của triều đình vua Lê chúa Trịnh đã khiến cho cuộc sống của người dân Đông Linh nói riêng và nhân dân cả nước nói chung vô cùng cực khổ, họ sẵn sàng đứng lên đấu tranh chống lại sự bất công khi có cơ hội.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, cùng với nhân dân cả nước, người dân Đông Linh đã đấu tranh chống Pháp xâm lược. Nguyễn Phong Loan cùng nhiều trai tráng trong làng đã gia nhập nghĩa quân của Tạ Quang Hiện, đào hào đắp lũy, lập các đội dũng binh, sắm sửa vũ khí chống giặc. Nguyễn Phong Loan được phong làm chánh hiệp quản chỉ huy các đội dũng binh, phong trào chống Pháp xâm lược diễn ra sôi nổi ở Đông Linh góp phần vào phong trào kháng Pháp trong cả nước.
Bước sang đầu thế kỷ XX, các khuynh hướng cứu nước mới được truyền vào nước ta, các sĩ phu yêu nước ở Đông Linh đã sớm đón nhận các khuynh hướng ấy. Đặc biệt Đông Linh tự hào là một trong hai chi bộ cộng sản đầu tiên của huyện Quỳnh Phụ. Đầu tháng 5/1930 chi bộ cộng sản Đông Linh được thành lập với ba đảng viên: Nguyễn Duy Tâng, Nguyễn Văn Đang, Vũ Nhượng do đồng chí Nguyễn Duy Tâng làm bí thư chi bộ. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ cộng sản Đông Linh, nhân dân Đông Linh đã một lòng tin theo Đảng, góp sức to lớn vào hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược. Nhiều người con Đông Linh đã chiến đấu hi sinh hoặc để lại một phần xương máu của mình trên chiến trường vì nền độc lập tự do của đất nước. Đông Linh từng là hậu phương lớn trong các cuộc kháng chiến chống phong kiến phương Bắc đến đây vẫn phát huy được khả năng ấy, là địa phương luôn hoàn thành tốt vai trò hậu phương của mình “ thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Nhân dân Đông Linh đã cùng với nhân dân cả nước làm nên những thắng lợi to lớn, giành lại độc lập tự do cho tổ quốc.
Với truyền thống yêu nước ấy, hiện nay Đông Linh đang cùng cả nước vững bước trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, mỗi con người nơi đây đều có ý thức xây dựng quê hương mình ngày càng giàu đẹp hơn.
Nhà Thờ Tổ Họ Nguyễn Duy Làng Nghìn
3. Truyền thống văn hóa
Trải qua hơn ngàn năm xây dựng, phát triển, Đông Linh có truyền thống văn hóa sâu đậm. Cũng giống như những vùng quê khác trên quê lúa Thái Bình, ở Đông Linh cũng hội tụ nhiều nét đẹp văn hóa, điều này được thể hiện trong sinh hoạt văn hóa thường ngày và trong đời sống tâm linh của người dân nơi đây. Đông Linh tự hào là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, vùng đất thiêng này đã sinh ra nhiều người hiền tài, có nhiều di tích, danh thắng nổi tiếng mà người xưa đã từng ca ngợi khắc chữ, sơn son thiếp vàng treo ở đình làng:
“Địa linh nhân kiệt kim nhi hậu
Văn vật thanh danh cổ tự hoàn”
Đình Đông Linh đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia (năm 1991). Đình gồm ba tòa, trong cùng là tòa thanh Miếu (cung cấm) có một phần và bài vị thờ Phạm Bôi. Tòa giữa thờ thất vị Thành hoàng. Phía trước tòa giữa ở sân là hồ vọng nguyệt, hai bên hồ là hai tòa giải vũ. Ngoài cùng là tòa đại bái 5 gian rộng rãi nơi bái vọng, nơi họp làng. Bên phải đình là một hồ nước rộng, hai bên sân là hai hàng bia đồng thời là lầu tướng của sân cờ, bên phải sân vẽ một bàn cờ để dân làng tổ chức đấu cờ trong các ngày làng vào hội. Trong đình làng còn rất nhiều đồ thờ, các bức đại tự, câu đối từ thời Lê. Các câu đối, đại tự đều có tính giáo dục sâu sắc.
Trong đình thờ Thành Hoàng làng là Phạm Bôi - Công thần khai quốc thời Lê. Phạm Bôi là một trong 18 người tham gia hội thề Lũng Nhai (năm 1416). Trong mười năm nếm mật nằm gai cùng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, ông được tham gia nhiều trận đánh góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Khi Lê Lợi lên ngôi hoàng đế đã ban cho Phạm Bôi tước huyện hầu và được ban quốc tính là Lê Bôi. Ông mất tại quê nhà. Sau khi ông mất, dân làng Đông Linh đã tôn Phạm Bôi và các nghĩa sĩ đồng thời cũng là anh em của ông là Phạm Du, Phạm Châu, Phạm Lưu, Phạm Quỳnh, Phạm Qúy, Phạm Khuê làm Thành Hoàng làng. Tại đình làng còn có câu đối:
“Thiên cổ Lam Sơn lưu vĩ tích
Ức niên Đông Địa lẫm linh danh”
(Nghĩa là: Muôn thuở chiến công của các ông còn gắn mãi với Lam Sơn
Ngàn vạn năm tiếng thơm ấy vẫn để lại đất Đông Linh).
Hàng năm, cứ vào các ngày 14, 15, 16 tháng hai âm lịch, dân làng lại tổ chức hội làng để tưởng nhớ tới công lao của các ông. Hội làng tổ chức vào tháng hai đây là lúc nông nhàn trong lao động sản xuất nên lễ hội làng đã cuốn hút được sự tham gia đông đảo của cộng đồng dân cư trong và ngoài làng, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người dân Đông Linh. Trong hội cùng với việc tiến hành các nghi thức tế lễ thường tổ chức thêm nhiều hình thức đua tài và nhiều trò chơi, trò diễn dân gian như: đánh cờ người, bắt vịt dưới ao, chọi gà… tạo nên một không khí vừa trang nghiêm, vừa nhộn nhịp, sôi động. Lễ hội đã thể hiện ý thức cộng đồng, cộng cảm, giao lưu của người dân làng Đông Linh. Hội làng còn là nơi để cư dân hưởng thụ văn hóa dân gian trong đó hát chèo là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong mỗi dịp hội làng:
“Chẳng thèm ăn chả ăn nem
Thèm mo cơm tẻ thèm xem hát chèo”
Và mảnh đất Thái Bình cũng là cái nôi của nghệ thuật chèo xứ Bắc:
“Ăn no rồi lại nằm khoèo
Nghe tiếng trống chèo bế bụng đi xem”.
Ngoài tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng thì đạo thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ là tín ngưỡng lâu đời nhất và bền vững nhất của cư dân nơi đây. Nhà nào cũng có bàn thờ tổ tiên, các ngày giỗ, ngày rằm, mùng một hàng tháng, con cháu đều có nén hương dâng lên bàn thờ ông bà tổ tiên để tưởng nhớ những người đã khuất. Đây là nét đẹp trong văn hóa tâm linh của người Đông Linh nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung.
Đông Linh không chỉ là mảnh đất “địa linh nhân kiệt” mà từ lâu đã nổi tiếng với nhiều cảnh đẹp. Làng có đình, chùa, miếu, văn chỉ hàng huyện. Những đền miếu ấy đều là những đồn lũy trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đầu thế kỷ XV, sau dân lập miếu thờ các nghĩa sĩ. Các đền miếu thờ này đến nay hầu như không còn nhưng chùa và đình làng thì vẫn còn. Chùa Đông Linh có tên là “Linh ứng Tự” tương truyền được xây dựng vào thời vua Lý Huệ Tông (1211 - 1224) và đã được trùng tu nhiều lần.
Thời Lý, Trần có hiện tượng “tam giáo đồng nguyên” (Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo) trong đó Phật giáo phát triển rực rỡ nhất. Làng Đông Linh cũng không là một ngoại lệ. Dấu tích còn lưu lại cho tới nay là ngôi chùa Nghìn. Trong cuộc sống thường ngày, một số người dân vẫn có tục ăn chay hoặc đi chùa thắp hương vào các ngày rằm, mùng một và các ngày lễ tết. Điều đó chứng tỏ, Phật giáo đã ăn sâu, bén rễ vào tiềm thức và đời sống tinh thần của người dân Đông Linh, gắn bó mật thiết với hội làng, với các hoạt động tín ngưỡng tâm linh khác.
Ở Đông Linh, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng tôn giáo nhiều khi đã gắn liền, hòa nhập trong tâm linh của không ít người. Họ có thể vừa thờ cúng tổ tiên tại gia, vừa tham gia nghi lễ ở đình và vẫn đi thắp hương, niệm phật tại chùa. Điều này thể hiện sự hướng thiện, cầu phúc, ít cuồng tín của người dân làng Đông Linh.
Đông Linh còn được mọi người biết đến bởi đây là một làng quê của những dòng họ truyền thống, ở làng có ba dòng họ lớn: Nguyễn Duy, Vũ Như, Nguyễn Bá. Mỗi dòng họ đều có những đóng góp nhất định cho quê hương và cũng là những dòng họ có những con người được lịch sử lưu danh. Mỗi dòng họ lại có những truyền thống và nét đẹp riêng của mình nhưng tất cả đều là niềm tự hào của người dân nơi đây. Phấn đấu để trở thành làng văn hóa và dòng họ văn hóa, gia đình văn hóa đang trở thành phong trào và là mục tiêu phấn đấu của mỗi gia đình, dòng họ.
Các gia đình, dòng họ ở Đông Linh đều coi trọng nề nếp, gia phong, lấy đó làm đạo lý để giáo dục con cái. Điều này được thể hiện trong hương ước của làng: “Những nhà có con cháu, anh em phải dạy bảo các sự tử tế không được để hoang tàn du thử du thực. Nếu để xảy ra trộm cướp thì 18 tuổi trở lên đã có nhà nước bắt tội không kể, còn từ 18 tuổi trở xuống thì làng phạt vào bố mẹ, anh em, về tội không biết dạy bảo, để con cháu làm xằng” .
Đông Linh còn là một làng khoa bảng nổi tiếng. Thời phong kiến làng Đông Linh có 2 hoàng giáp, 2 tiến sĩ, 15 cử nhân, hơn 50 giám sinh, sinh đồ hiếu sinh, nhất nhì trường. Trong số ấy nhiều người nổi tiếng về tài đối đáp, học giỏi từ khi còn nhỏ, hoặc lúc đang đi học, như tiến sỹ Nguyễn Duy Hợp, Nguyễn Kim Phương. Dân làng vẫn còn nhớ câu ca:
“Hà Nội ba sáu phố phường
Không ai sánh nổi cống Phương làng Nghìn”.
Nhiều ông nghè, ông cống ở làng Đông Linh còn nổi tiếng ở chốn quan trường hoặc để lại tiếng tốt trong dân. Hoàng giáp Nguyễn Doãn Khâm thi đỗ khoa Giáp Tuất (1514) làm đến Tả thị lang bộ Lại, đã từng được cử đi sứ sang nhà Minh, khi về trí sĩ ông được phong Thượng thư. Hoàng giáp Nguyễn Duy Hòa đỗ khoa Ất Mùi (1535) làm đến Tổng binh thiên sự, trấn thủ Cao Bằng. Nhiều người là tri phủ tri huyện ở những phủ huyện có truyền thống hiếu học như: Ngụy Năng Xưởng tri huyện Từ Liêm, Nguyễn Duy Thục tri huyện Đông Quan, Vũ Công Đường tri phủ Thiên Trường, Nguyễn Duy Tân tri phủ Ứng Hòa.
Từ xưa Đông Linh đã có phong trào khuyến học, những người là sinh đồ thì được dự các kỳ tế tự ở đình làng chung, được cấp ruộng. Nhiều nhà hai anh em, cha con đi học, truyền thống ấy được nối tiếp đến ngày nay. Làng Đông Linh hiện nay có gần hai chục người có hàm giáo sư, học vị tiến sỹ, thạc sỹ, số người có bằng cử nhân có tới vài trăm, trong đó họ Nguyễn Duy đã có tới hơn một trăm người. Nhiều gia đình có cả ba thế hệ cha - con, ông -cháu đều có bằng cử nhân. Có những gia đình nông dân, cha, mẹ, ông, bà không có ai đỗ đạt nhưng lại có con cái đỗ cử nhân, tiến sĩ. Đó là truyền thống ham học, hiếu học của con người nơi đây. Truyền thống ấy của làng đã được kế thừa và phát huy, biểu hiện rõ nhất ở thành tích của trường Tiểu học và trường Trung học cơ sở An Bài đã trở thành trường anh hùng.
Làng Đông Linh còn nổi tiếng với món bánh chưng. Bánh chưng làng Nghìn to, nặng tới 70kg mà ăn vẫn ngon. Xưa làng có lệ thi bánh chưng vào ngày Mồng 6 Tết. Mỗi giáp chỉ gói một chiếc, bánh được đem tế thần Thành Hoàng làng, sau được đưa về các giáp, chia đều cho mọi người, mọi nhà. Có người nói tục này có từ thời chống giặc Minh đầu thế kỷ XV, Phạm Bôi đã gói bánh để khao quân. Có người lại nói tục này có từ thời Hùng Vương. Hiện nay chưa xác định được chính xác thời điểm xuất hiện của tục này.
Hiện nay, những di sản văn hóa còn lưu giữ, bảo tồn được ở làng Đông Linh phải kể đến hệ thống bia đá. Xưa các bia được đặt rải rác ở đền, miếu, nay được quy tập về sân đình. Tiêu biểu là bia “Toàn huyện duệ Tiên hiền bi ký” được khắc dựng vào năm Long Đức thứ 3 (1734) thời vua Lê Thuần Tông. Bia khắc cả hai mặt, mặt chính khắc tên, tên hiệu, quê quán, năm đỗ đạt của 27 đại khoa từ Tiến sĩ đến Trạng nguyên của huyện Phụ Dực. Mặt sau của bia ghi tên, quê quán, học vị, chức tước của 102 cống sinh, sinh đồ, giám sinh. Ngoài ra còn có bia “Cư nhân đình bi ký” khắc năm 1737. Bia ghi lịch sử ngôi đình, tóm tắt sự phát triển của làng qua các thời kì. Phần chính của bia ghi rõ: “Đặt tên đình làng là Cư Nhân để con cháu sau này tu dưỡng cái đức, biết sống ôn hòa, nhân hậu”, dần dần sẽ trở thành thuần phong mỹ tục của làng.
Để nhắc nhở đời sau phải biết giữ gìn những giá trị truyền thống do cha ông để lại, tại đình làng còn đôi câu đối:
“Văn vật thịnh hưng truy vãng tiết
Tử tôn phục tủy liệu tư đình”
(Nghĩa là: Những truyền thống, những di sản văn hóa quý báu mà cha ông đã dày công xây dựng, còn hay mất phát triển lên cao tầm hay không là ở con cháu).
Truyền thống văn hóa của làng Đông Linh được thể hiện trong những câu thơ giản dị mà ngọt ngào:
“… Tháng hai nhớ cánh đồng bông
Nhớ dưa chuột, nhớ bánh chưng làng Nghìn
Nhớ cây đa đứng sân đình
Nhớ sân cờ tướng nổi danh kì tài
Thi lợn giữa rằm tháng hai
Thi gà Đồng Tuế xóm ngoài xóm trong
Tháng giêng mồng 6 bánh chưng
Bánh to nhất nước khắp vùng đến xem
Cạnh chùa văn chỉ tiên hiền
Văn từ hàng huyện liền bên cạnh đình
Làng Nghìn khoa bảng đề danh
Cử nhân tiến sĩ sử xanh bia đề.
Nhân dân Đông Linh ngày nay luôn luôn ghi nhớ lời dạy của cha ông, đã và đang phát huy để quê hương Đông Linh mãi mãi là một làng văn hiến, một điểm sáng về xây dựng làng văn hóa