CÁC TRIỀU ĐẠI VIỆT NAM

Thứ ba - 27/08/2024 02:22 17 0

CÁC TRIỀU ĐẠI VIỆT NAM

LÊ HIỂN TÔNG (1740-1786)

LÊ HIỂN TÔNG (1740-1786)
Niên hiệu: Cảnh Hưng

Hiển Tông tên thật là Duy Diên, là Thái tử của vua Thuần Tông. Nhưng vì có chú là Duy Thận và Duy Mật khởi nghĩa chống họ Trịnh chuyên quyền, vì thế Duy Diên bị Trịnh Giang truất ngôi Thái tử và bị giam cầm từ lâu. Chúng ta biết rằng Duy Tường (Thuần Tông), Duy Thận (Ý Tông) và Duy Mật đều là con của vua Lê Dụ Tông, Duy Diên là con trưởng của Duy Tường nên phải gọi Duy thận và Duy Mật là chú. Sau khi Trịnh Doanh lên thay ngôi chúa của Trịnh Giang mới sai người thả Duy Diên và lập lên làm vua, ép vua Ý Tông phải nhường ngôi cho cháu dòng đích. Trong tờ chiếu nhường ngôi của vua Ý Tông có đoạn viết: "Nghĩ phương xa có nhiều kẻ mạnh, lòng càn rỡ, muốn cho trong ngoài bờ cõi được yên vui, thì chính là theo lễ nên tôn dòng con trưởng, để trọng tông thống, mà thu phục lòng người". Sau khi Ý Tông lên làm Thượng hoàng ra ở ngôi điện Càn Thọ, số xã dân trong cung phụng được lấy bằng 1/3 trong số chính phần của các vua Lê thời kỳ này.
Theo mô tả của các sách sử còn lại, Duy Diên râu rồng, mắt phượng, trước là con trưởng nhưng vì ở vào hoàn cảnh nguy hiểm, bị ngờ vực, thường đã nếm trải nhiều gian khổ. Vua lên ngôi báu lúc mà trong nước gặp nhiều việc: bốn phương quân khởi nghĩa nổi lên liên tục không lúc nào yên. Nhưng nhờ có tài giúp đỡ của Minh 
vương Trịnh Doanh nên 10 năm sau đất nước đã trở li yên bình dân yên cư lạc nghiệp, người bấy giờ cũng ca ngợi là thời thái bình. Phải nói Lê Hiển Tông là ông vua trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến nước ta. Số năm trị vì của ông lên tới gần nửa thế kỷ - 47 năm. Bí quyết của ông này là sống nhàn hạ và không quan tâm gì đến chính sự, mọi việc đều do nhà chúa quyết định từ Trịnh Doanh sau đến Trịnh Sâm. Dưới thời Doanh, vì Doanh tin vào phúc đức của nhà vua nên cố gắng tôn lập và dựa vào. Sau này khi Trịnh Sâm lên cầm quyền chính, lấn bức vua ngày càng quá đáng song vua vẫn đối xử một cách bình thường. Lúc nào vua cũng tỏ ra thâm trầm kín đáo, người ta không thấy góc cạnh. Vua thường nói: "Trẫm rũ áo chắp tay nhờ nghiệp đã sẵn, cần gì đọc sách, chỉ hát múa, ăn chơi để tiêu khiển mà thôi".
Tháng Giêng năm Giáp Thân (1764) vua cho lập Duy Vĩ làm Thái tử. Năm Đinh Hợi (1767) Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm, làm Nguyên soái tĩnh đô vương. Tháng 3 năm Kỷ Sửu (1769) Sâm truất ngôi thái tử của Duy Vĩ rồi bắt giam vào ngục.
Thái tử Duy Vĩ lúc nhỏ đã rất thông minh, nhanh nhẹn, xem thông các sách kinh, sử. Đối với sĩ phu Thái tử có thái độ rất ôn hoà lễ độ, thần dân ai cũng mến vọng Thái tử. Trịnh Doanh rất trọng tài của Thái tử, đem con gái trưởng là Tiên Dung quận chúa gả cho Thái t. Song trong lòng Thái tử vẫn bực tức về nỗi nhà Lê bị lấn quyền, rất muốn thu nắm quyền cương. Khi đó Trịnh Sâm cũng đang là Thế tử, đối với Thái tử hắn vẫn đem lòng ghen ghét về địa vị và tài năng. Sự việc càng trở nên nghiêm trọng hơn khi một hôm Thái tử và Sâm cùng ở phủ đường, được chúa Trịnh ban cho ăn cơm và bảo cùng ngồi một mâm. Lúc ấy vợ Trịnh Doanh là Nguyễn Thị ngăn đi và nói: "Thế tử và Thái tử có danh phận vua tôi, lẽ nào được ngồi 
cùng mâm? nên phân biệt làm hai chiếu". Sâm đổi nét mặt, bước ra về, nói với người ngoài rằng: "Ta với Duy Vĩ hai người, phải một chết một sống, quyết không song song cùng đứng được".
Khi Sâm được lên ngôi chúa, việc đầu tiên là Sâm bàn cách để hãm hại Thái tử. Việc này Sâm bàn với Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Huy Đĩnh, cuối cùng họ vu cho Thái tử thông dâm với người phủ thiếp của Trịnh Doanh, rồi đem tội trạng ấy tâu bày với nhà vua và xin bắt Thái tử giam vào ngục. Mặc dù Thái tử đã chạy vào ẩn trong nội điện của nhà vua thế mà vua không dám cứu con mình, chỉ ôm lấy Thái tử mà khóc rồi để cho người của Trịnh Sâm bắt giam. Trước khi bị tống vào ngục, Thái tử quát vào mặt bọn quan lại nhà Trịnh: "Bỏ vua này, lập vua khác, bạo nghịch giết vua, là việc làm đã quen với nhà bay, chứ ta có tội gì đâu? Việc này đã có sử xanh chép để ngàn đời!" Trịnh Sâm giả thác mệnh vua, truất Thái tử làm thế nhân rồi giam vào ngục. Tháng 8 năm Kỷ Sửu (1769) Trịnh Sâm cho lập Duy Cận là con thứ của vua làm Thái tử.
Tháng 12 năm Tân Mão (1771) Sâm sai giết Thái tử Duy Vĩ, tháng Gieng năm Quý Mão (1783) lập Duy Khiêm làm Hoàng thái tôn, truất Duy Cận làm Sùng Nhượng công. Việc này do binh lính tam phủ làm. Chả là lúc Thái tử Duy Vĩ bị hại, Duy Khiêm (con trai trưởng của Duy Vĩ) mới 6 tuổi, cùng với các em là Duy Trù và Duy Chi đều bị bắt giam đến lúc quân lính tam phủ nổi lên, họ rước Duy Khiêm về nội điện lập làm Hoàng thái tôn. Thấy Duy Khiêm trở về, Trịnh thái phi Nguyễn Thị (vợ Trịnh Doanh, người xã Thịnh Mĩ, huyện Lôi Dương, mẹ đẻ của Tiên Dung quận chúa, người ủng hộ việc lập Duy Cận) sợ Duy Cận mất ngôi Thái tử, bèn sai hoạn quan là Liêm Tăng đến bắt ép Duy Khiêm sang chầu, để toan bí mật giết đi. Duy Khiêm từ chối không được, sa nước mắt khóc mà đi; khi ra 
đến đường bị quân tuần sát ngăn lại, biết được mưu hại Duy Khiêm quân lính làm ầm ĩ, yêu cầu tra cứu cho ra người lập mưu hại Duy Khiêm, họ lùng tìm hoạn quan Liêm Tăng nhưng không thấy, ngờ Duy Cận là chủ mưu. Lúc ấy Duy Cận đương chầu Trịnh thái phi, nghi trượng để ở ngoài phủ đường, quân lính liền đập phá tan nát. Duy Cận sợ, phải thay đổi quần áo rồi lẻn về cung. Lúc này Trịnh Khải đã lên thay Trịnh Sâm, Khải biết việc này do Thái phi gây ra, nhân dụ dỗ quân sĩ chớ làm huyên náo, rồi lập tức hạ lệnh cho bầy tôi trong triều xin vua cho lập Duy Khiêm lên làm Hoàng thái tôn. Lúc đó Duy Khiêm đã 18 tuổi, bắt Duy Cận làm tờ biểu nhường ngôi, rối truất Cận làm Sùng Nhượng công.

LÊ MẪN ĐẾ (1787-1789)
Niên hiệu: Chiêu Thống

Tên là Duy Khiêm (còn có tên là Duy Kỳ), cháu đích của vua Hiển Tông, con của Thái tử đã mất. Duy Vĩ, Duy Khiêm được quân tam phủ đưa từ nơi bị giam cầm về ép vua và Trịnh Khải, lập làm Thái tôn, truất ngôi Thái tử của Duy Cận. Trước khi vua Hiển Tông mất đã cho gọi Thái tử Duy Khiêm vào trối lời truyền ngôi. Thái tử vừa lạy vừa khóc xin nhận mệnh. Lúc đó Nguyễn Huệ đã cưới công chúa Ngọc Hân. Ông có hỏi Ngọc Hân về việc cácc hoàng tử, công chúa rất khen Duy Cận là người tốt. Nguyễn Huệ muốn bàn luận lại việc lập người nối ngôi, triều đình lo sợ, không biết làm thế nào được, các người trong họ tông thất đều trách móc công chúa làm hại mưu kế lớn của xã tắc. Công chúa sợ, trở về xin với Nguyễn Huệ, Nguyễn Huệ nhận lời, bèn phò Thái tôn lên ngôi Hoàng đế, đổi tên là Duy Kỳ. Lấy niên hiệu là Chiêu Thống. Khi Nguyễn Nhạc ra Thăng Long, Lê Chiêu Thống đem trăm quan thân hành đón tiếp ở ngoài cửa Nam Giao. Sau khi cùng Nguyễn Nhạc đàm đạo việc nước vua Lê xin cắt đất cho Nguyễn Nhạc để khao quân. Nguyễn Nhạc từ chối. Rồi Nguyễn Nhạc cùng vua Lê ước hẹn đời đời làm láng giềng hoà hiếu.
Nhưng khi Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuân thì hào mục ở các nơi lại nổi dậy cát cứ, họ Trịnh cùng Trịnh Bồng trở lại Thăng Long tự lập làm Nguyên soái Yến Đô Vương và lấn át nhà vua như trước, khiến cho triều đình rối ren, chém giết lẫn nhau. Nguyễn Huệ lại phải kéo quân ra Bắc dẹp nội loạn, chiêu tập các cựu thần văn võ nhà Lê, lấy Sùng Nhượng công Lê Duy Cận đứng giám quốc và để Ngô Văn Sở quản lĩnh binh chúng rồi kéo quân về Nam.
Để khôi phục lại Lê Chiêu Thống, tháng 7 năm Mậu Thân (1788) Hoàng thái hậu nhà Lê sang nhà Thanh xin quân cứu viện.
Sau khi lấy lại được Thăng Long, dựa vào thế quân Thanh vua Lê đã trả thù tàn bạo những người đã theo Tây Sơn, vì thế không khí trong kinh ngoài trấn đều chán nản, rời rạc và lo sợ.
Mồng 1 tết năm Kỷ Dậu (1789), quân đội Tây Sơn do Hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy kéo ra Bắc đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh. Các tướng nhà Thanh sống sót bỏ chạy về nước kéo theo vua bán nước. Lê Chiêu Thống cùng bầy tồi 25 người.
Nhà Lê mất. Sau 5 năm sống lưu vong nhục nhã và phẫn uất trên đất Thanh, tháng 10 năm Quý Sửu (1793), Lê Chiêu Thống chết ở Yên Kinh (Trung Quốc), thọ 28 tuổi. Tháng 8 năm Giáp Tý (1804) triều Nguyễn đã cho đưa thi hài Lê Chiêu Thống về nước, chôn tại lăng Bàn Thạch. Trên bài vị thờ tại lăng đề là Nghị hoàng đế.
Tháng 2 năm Giáp Thân (1884) niên hiệu Kiến Phúc thứ 1 của nhà Nguyễn truy đặt tên thuỵ cho Lê Chiêu Thống là Mẫn đế. Đây là ông vua cuối cùng của triều Lê.
Như vậy nhà Lê Trung Hưng từ Trang Tông đến Chiêu Tông trải qua 18 đời với 265 năm trị vì.
Nhà Hậu Lê tồn tại song song với nhà Mạc từ 1533-1592. Và với Trịnh Nguyễn từ 1592-1789. Đây là giai đoạn của nạn nội chiến Nam-Bắc triều và Trịnh-Nguyễn phân tranh gây nên bao cảnh đau thương, thảm khốc trong nhân gian.
Mười sáu đời vua Lê nối tiếp nhau:
1. Trang Tông (1533-1548)
2. Trung Tông (1548-1556)
3. Anh Tông (1556-1573)
4. Thế Tông (1573-1599)
5. Kính Tông (1600-1619)
6. Thần Tông (1619-1643 và 1649-1662)
7. Chân Tông (1643-1649)
8. Huyền Tông (1663-1671)
9. Gia Tông (1672-1675)
10. Hy Tông (1676-1704)
11. Dụ Tông (1705-1728)
12. Hôn Đức Công (1729-1732)
13. Thuần Tông (1733-1735)
14. Ý Tông (1735-1740)

15. Hiển Tông (1740-1786)
16. Chiêu Thống (1787-1789)

Còn tiếp

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập21
  • Hôm nay1,075
  • Tháng hiện tại47,613
  • Tổng lượt truy cập808,527
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây