18. TRIỀU TÂY SƠN (1778-1802) THÁI ĐỨC HOÀNG ĐẾ (1778 -1793)
Niên hiệu: Thái Đức
Tổ tiên anh em Tây Sơn vốn người họ Hồ ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Khoảng những năm 1653 - 1657 quân Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài, chiếm được 7 nguyện của trấn Nghệ An, khi rút về Nam họ đem theo rất nhiều dân ở các huyện trên vào sinh sống ở các vùng đất mới phía Nam để khẩn hoang. Ông tổ của Tây Sơn cũng bị quân Nguyễn bắt và an sáp ở ấp Tân Sơn Nhất (nay là thôn An Khê, phủ Hoài Nhân, Bình Định). Từ đó họ đổi sang họ Nguyễn.
Đến đời Nguyễn Phi Phúc lại dời sang ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn (Tuy Phước, Bình Định). Ông Nguyễn Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng sinh được ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ Gia đình ông làm nghề buôn trầu, cuộc sống cũng khá giả.
Anh em Nguyễn Nhạc cũng có được đi học và có thời gian đã theo học thầy giáo Hiến. Giáo Hiến nguyên là môn khách của Trương Văn Hạnh, ngoại hữu dưới thời Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777). Sau vì Hạnh bị Trương Phúc Loan giết, Giáo Hiến sợ bị liên lụy phái chạy vào Qui Nhơn mở trường dạy học ở ấp Yên Thái. Lúc đó quyền thần Trương Phúc Loan tác oai tác phúc, lòng người ai cũng căm ghét. Hàng ngày được học ở Giáo Hiến, anh em Tây Sơn lại được thúc giục bởi những câu sấm đầy khích lệ: "Tây khởi nghĩa, Bắc thụ công”. Giáo Hiến còn nói cụ thể hơn:
- Anh là người Tây Sơn, hãy cố đi!
Nguyễn Nhạc xuất thân làm biện lại (thu thuế ở một trạm thuế trong vùng) nhưng vụ thuế năm Tân Mão (1771), thu được bao nhiêu Nguyễn Nhạc đánh bạc hết sạch. Để tránh sự truy tố của nhà cầm quyền, Nhạc bỏ trốn cùng hai em vào ở núi Thượng Đạo, ấp Tây Sơn, dựng trại, lập đồn, xưng hùng khởi nghĩa. Cơ nghiệp triều Tây Sơn bắt đầu từ đây.
Theo anh em Tây Sơn là những người can đảm đã từng bôn ba, bị cuộc sống dồn nén, xô đẩy đến bước đường cùng phải cầm vũ khí; lại có cả những người thuộc các dân tộc miền thượng du vùng Nam Trường Sơn. Bước đầu nghĩa quân đã có vài nghìn người. Anh em Tây Sơn thường sai quân đi cướp của những nhà giàu trong vùng rồi phân phát cho dân nghèo. Lúc bấy giờ trong vùng Quy nhơn có Huyền Khê là một tay giàu có, ngầm giúp họ về tài chính. Nhờ đó Tây Sơn mộ lính sắm khí giới và theo đuổi mục tiêu cao hơn; lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ Hoàng Tôn Dương:
Mùa thu năm Quý Tỵ (1773), Tây Sơn đem quân ra đánh ấp Kiên Thành, chia đặt cơ quan cai quản trong vùng họ kiểm soát: Chúa trại nhất Nguyễn Nhạc kiểm soát hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn. Chúa trại nhì Nguyễn Thung phụ trách huyện Tuy Viền; còn chúa trại ba Huyền Khê cung cấp lương thực quân nhu... Họ không chỉ mở rộng vây cánh ở trong vùng như chiêu dụ những tay lục lâm Nhưng Huy và Tứ Linh mà còn liên lạc với nước ngoài, mật ước với nữ chúa Chiêm Thành đem quân sang đóng ở trại Thạch Thành làm thế ỷ gốc. Công việc sắp đặt và mưu mô ban đầu đều do Nguyễn Nhạc, một con người cơ trí và đóng vai trò chủ động. Bằng mưu kế trá hàng của Nguyễn Nhạc, quân Tây Sơn chỉ trong một đêm đã lấy được thành Quy Nhơn, sau đó tiến đánh Quảng Ngãi. Dưới chiêu bài tôn phò Đông Cung Dương họ đánh chiếm được Phú Yên. Năm Bính Thân (1766), Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương đúc ấm vàng, phong cho hai em: Nguyễn Huệ làm phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thiếu phó. Những người có công theo giúp cũng theo thứ bậc ban thưởng. Tây Sơn vương đóng đô tại thành Đồ Bàn, trữ lương thực, luyện binh lính, điểm duyệt tướng sĩ, thu dùng những tay hào kiệt, lực lượng phát triển nhanh chóng.
Giảng hòa với quân Trịnh, năm Đinh Dậu (1777) Nguyễn Nhạc được phong làm Quảng Nam trấn thủ tuyên uý Đại sứ Cung Quốc công. Từ đó quân Tây Sơn dốc toàn lực tấn công quân Nguyễn ở phía Nam - Hai đạo quân thủy bộ do Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cầm đầu rầm rộ tiến vào Gia Định: Nguyễn Phúc Thuần và Đông Cung Dương đều bị chết trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy thoát.
Năm Mậu Tuất (1778) sau khi đã giết được chúa Nguyễn, đánh tan lực lượng của chúa Nguyễn ra khỏi cõi Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, thành lập một vương triều mới, đặt niên hiệu là Thái Đức, phong Nguyễn Huệ làm Long Nhượng tướng quân.
Lúc bấy giờ thấy vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc lấy hiệu bằng hai chữ "Thái Đức", có người hiếu sự, đoán chiết tự hai chữ "Thái" và chữ "Đức" mà phán rằng. "Ba người tranh một nước", mười bốn năm nữa sẽ mất". Có người còn đoán định mệnh nhà Tây Sơn bằng câu: "Thập nhị niên cường, kỳ cường mạc ngư" (Mạnh mười hai năm, cái mạnh ấy không ai chống nổi).
Thế là từ lúc khởi bệnh năm Tân Mão (1771) đến năm Nguyễn Nhạc lên ngôi năm Mậu Tuất (1778) anh em nhà Tây Sơn đã phải chiến đấu trong 8 năm trường.
Năm Giáp Thìn (1784) quân đội Tây Sơn đã đánh tan hai vạn thủy binh với 300 biến thuyền giặc Xiêm ở Định Tường. Năm Bính Ngọ (1786), theo lệnh của Hoàng đế Nguyễn Nhạc, Long Nhượng tướng. quân Nguyễn Huệ đem đại quân ra hạ thành Thuận Hóa của quân Trịnh tháng Năm năm Bính Ngọ (1786) và một tháng sau -ngày 25 tháng Sáu quân đội Tây Sơn đã tiến vào cố đô Thăng Long, thực hiện khẩu hiệu "phù Lê diệt Trịnh"
Sau nhiều chiến thắng lẫy lừng; uy danh của Nguyễn Huệ ngày càng vang dội. Nghe tin Nguyễn Huệ đã lấy được thành Thăng Long, Nguyễn Nhạc cả sợ, cho rằng Nguyễn Huệ giữ quân ở ngoài, khó bề kiềm chế nổi, liền lấy 500 thân binh ra Phú Xuân chọn thêm quân tinh nhuệ đi gấp ra Bắc. Vua Lê biết tin vua Tây Sơn thân hành ra Thăng Long, đem trăm quan ra ngoài cõi để đón. Nguyễn Nhạc thúc quân đi mau, sai người đến hẹn với vua Lê hôm khác sẽ đến ra mắt. Còn Nguyễn Huệ ra tận ngoại ô đón tiếp và tạ tội tự chuyên của thình. Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc nói:
- Tướng ở bên ngoài, nếu gặp việc biến thì cứ tự ý mà làm cũng được. Bắc Hà có thể lấy được, mà ông lấy ngay được, đó là nhờ thần diệu trong phép dùng binh... Nhưng mà mình đi đánh nước khác, kéo quân vào sâu trong xứ sở của người ta, một chốc làm thay đổi hết nền nếp cũ của họ như thế, tránh sao khỏi sự thù oán của muôn họ. Anh luôn luôn lo ngại đến những việc bất ngờ có thể xảy ra, vì vậy phải lật đật ra ngay đây để nghĩ kế đỡ ông.
Tới phủ, Nguyễn Huệ dắt công chúa Ngọc Hân ra chào và nói hết cả sự thật với anh. Vua Tây Sơn khen: Chà, em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam, "môn đăng hộ đối" một nhân duyên thật đẹp? - Rồi lại bảo công chúa rằng:
- Người quí giá như thế này, thực không hổ là cô em dâu của nhà ta.
Hai anh em ôn tồn trò chuyện thân mật như anh em nhà thường dân vậy. Hồi lâu, công chúa cáo từ lui ra, Nguyễn Huệ sai quây màn ở cung chính tẩm, mời anh vào nghỉ; còn tự mình thì chuyển ra ngủ ở Gác Kỳ Lân.
Quân lính của Nguyễn Huệ đem đi trước đây, các đội ngũ đều đã thay đổi. Nay Nguyễn Huệ đem binh phù nộp cả lại cho anh. Vua Tây Sơn nắm được binh quyền trong tay rồi, bèn bố trí lại đội ngũ y như cũ. Từ đó tướng sĩ chỉ tuân theo mệnh lệnh của nhà vua. Buổi lễ gặp mặt hai vua diễn ra ngay sau đó tại bản doanh của vua Tây Sơn: Nguyễn Nhạc đứng chắp tay trên thềm, sai Nguyễn Huệ ra đón nước vua Lê. Vì là nghi lễ "hai vua gặp nhau” cho nên không ai phải lạy ai. Khi mọi người đã an tọa, vua Tây Sơn liền hỏi:
- Hoàng thượng năm nay xuân thu độ bao nhiêu?
Viên quan đi theo đáp thay vua Lê, rồi nhân đó tiếp rằng:
- Quân quân họ Lê chúng tôi gặp phải họ Trịnh lấn quyền lộng thổ, mũ dép đảo lộn đã lâu. May nhờ thánh thượng là bậc chí nhân đại nghĩa, sai tướng ra quân, vì quốc dân chúng tôi mà chỉnh đốn lại cơ đồ... rồi xin cắt mấy quận ấp khao thưởng quân sĩ.
Vua Tây Sơn đáp rằng:
- Vốn vì họ Trịnh chuyên chế, cho nên mới làm việc tôn phò nhà Lê; nếu là đất của họ Trịnh thì một tấc tôi cũng không để; còn như đất của nhà Lê thì một tấc tôi cũng không dám lấy, chỉ mong tự hoàng phân phát rường mối nhà vua, giữ yên trong cõi, đời đời hòa mục giao hảo với nước láng giềng, như thế là phúc đức cho cả hai nước vậy.
Từ sau cuộc tiếp kiến đó, lòng người Bắc Hà mới yên, hết ngờ sợ quân Nguyễn Nhạc.
Sau khi từ Bắc Hà trở về, tháng Tư năm Đinh Mùi (1787) Nguyễn Nhạc chia vùng đất phía Nam ra làm ba: từ núi Hải Vân trở ra Bắc thuộc về Bắc Bình vương Nguyễn Huệ; đất Gia Định thuộc về Đông Định vương Nguyễn Lữ; Nguyễn Nhạc đóng ở Quy Nhơn tự xưng là Trung Ương đế.
Từ đó Nguyễn Nhạc tự mãn với sự giàu sang phú quý đã đạt được không lo gì đến thời cuộc, chỉ lao vào con đường hưởng lạc, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ mâu thuẫn trong việc chia của, chia đất, đem binh đánh lẫn nhau. Nguyễn Huệ cho quân bao vây thành Quy Nhơn trong vài tháng, Nguyễn Nhạc đóng chặt thành cố giữ và cầu viện Đặng Văn Trấn từ Gia Định về giải vây. Nhưng mới đi đến Phú yên, Đặng Văn Trấn bị quân Nguyễn Huệ bắt được. Nguyễn Nhạc bèn ở trên thành gọi Huệ mà bảo rằng:
- Nồi da nấu thịt, lòng em sao nỡ làm thế?
Rồi hai anh em cùng hướng vào nhau mà khóc, giảng hòa, lấy Bản Tấn làm giới hạn: từ Quảng Ngãi trở vào Nam Nguyễn Nhạc làm chủ; từ phủ Thăng, phủ Điện trở ra Bắc do Nguyễn Huệ làm chủ. Từ đấy anh em phòng bị lẫn nhau, không còn để ý đến miền Nam nữa. Nguyễn Lữ tài hèn sức yếu bỏ thành Gia Định chạy về Quy Nhơn rồi mất. Trong khi Nguyễn Huệ phải đem quân ra đánh quân xâm lược Thanh, Nguyễn Nhạc ở phía Nam không lo phòng bị, để quân Nguyễn Ánh lấy Bình Thuận, Bình Khang, Diễn nhánh...
Thế của Nguyễn Nhạc ngày càng yếu, chỉ bỏ bo giữ được các thành Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên mà thôi.
Khi vua Quang Trung mất năm Nhâm Tý (1792), Nguyễn Nhạc cũng không thể ra viếng em trai được vì quân đội của Nguyễn Quang Toản ngăn cản và lo phòng bị tấn công.
Một năm sau khi Nguyễn Huệ Quang Trong từ trần, năm Quí Sửu (1793) quân Nguyễn Ánh vây thành Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc đang ốm, sai con là Bảo đem quân chống giữ, tình hình rất nguy ngập, Nguyễn Nhạc viết thư cầu cứu Quang Toản. Quang Toản sai các tướng Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn, Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh, 80 thớt voi và 30 chiếc thuyền chiến chia đường tiến vào cứu viện. Quân Nguyễn Ánh phải rút lui. Các tướng của Quang Toản vào thành Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc sai đem vàng bạc mỗi thứ một mâm khao quân: Thái uý của Quang Toản là Phạm Công Hưng bèn biên kê kho tàng, thu lấy giáp đinh và giữ thành. Trước việc làm đó, Nguyễn Nhạc uất quá thổ ra máu mà chết, Quang Toản phong cho con Nguyễn Nhạc là Bảo làm Hiếu công, cắt cho huyện Phù Ly để làm ấp ăn lộc, gọi là Tiểu Triều. Mẹ Bảo nói với con rằng: "Khai thác cõi đất đều là công của cha mày, nay chỉ ăn lộc có một huyện, nếu sống mà chịu nhục chẳng thà chết còn hơn”.
Từ đó Bảo có chí muốn hàng quân Nguyễn Ánh, bị quân của Quang Toản bắt được, cho uống thuốc độc chết.
Như vậy Nguyễn Nhạc làm vua được 16 năm.
Còn tiếp
Ý kiến bạn đọc