Trần Thủ Độ sinh trưởng trong một gia đình làm nghề chài lưới tại làng Lưu Xá, huyện Ngự Thiên, lộ Long Hưng (nay là xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Mồ côi cha từ nhỏ, ông ở với người anh cả, phải lam lũ tìm kế sinh nhai nên học hành không được bao nhiêu. Tuổi trẻ Trần Thủ Độ được tôi luyện trong một xã hội đầy loạn ly. Năm 20 tuổi, ông gia nhập hương binh, 21 tuổi được giao chỉ huy một đội thuỷ binh dưới trướng người anh họ là Trần Tự Khánh. Bằng tài năng ý chí của mình ông được nhà Lý rất trọng dụng.Trong lịch sử Việt Nam, Trần Thủ Độ là một đại công thần, là người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước những năm đầu thời kỳ nhà Trần. Trong suốt 40 năm (1226-1264), cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền với nghiệp đế của họ Trần, với quá trình khôi phục và phát triển kinh tế xã hội Việt Nam từ đống tro tàn của triều Lý vào thế kỷ XIII. Sau khi nhà Trần thành lập, ông được vua phong làm Quốc thượng phụ rồi Thái sư. Bằng tài năng, uy tín của mình, ông đã củng cố nước Việt vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, quân sự... .Trần Thủ Độ cũng là người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 1. Tháng 12 năm Đinh Tỵ (tức tháng 1-1258), lúc đó thế giặc rất mạnh, quân Đại Việt bị đánh lui, khi đó vua đã tới hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, ông đã trả lời: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo” (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, trang 28, tập II, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội- 1998). Vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, câu trả lời đanh thép ấy của ông đã giữ vững được tinh thần dám đánh và quyết thắng của quân dân Đại Việt. Câu nói đó đã để lại trong dân tộc Việt Nam một hình tượng Trần Thủ Độ anh hùng, bất khuất, tài năng, quả cảm, có công lao to lớn với Vương triều Trần và nhà nước Đại Việt.Trần Thủ Độ là người không chỉ có mưu lược trong việc dựng nước và giữ nước mà ông còn là một người có đầu óc tổ chức, phát triển kinh tế đất nước. Các tư liệu lịch sử về việc đổi mới kinh tế thời Trần (khi Trần Thủ Độ còn sống) không có nhiều, nhưng qua các tài liệu hiện còn lưu giữ, ta có thể thấy rằng khi thực sự nắm quyền điều hành đất nước, Trần Thủ Độ và Vương triều Trần đã nhận thấy sự yếu kém về kinh tế của nhà nước Đại Việt dưới thời Lý Huệ Tông. Vì thế ông đã tiến hành cho phép chuyển công hữu thành tư hữu. Cụ thể, "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi: "Tháng Sáu bán ruộng công, mỗi diện 5 quan tiền (diện tương đương với mẫu bây giờ), cho phép nhân dân mua làm ruộng tư". Sau khi đã nắm thực quyền trong tay, Thủ Độ đã tâu với vua không chỉ bán ruộng cho những người nông dân không tấc đất cắm dùi mà ông còn củng cố đê điều, đắp đê ngăn nước mặn, đào sông khai thông đường thuỷ, bộ. "Đại Việt sử ký toàn thư" viết: "Tháng 3, sai các lộ đắp đê giữ nước sông, gọi là đê Đỉnh Nhĩ (Quai Bạc), đắp suốt từ đầu nguồn đến bờ biển để giữ nước lụt khỏi tràn ngập. Đặt chức Hà đê Chánh phó sứ để trông coi. Chỗ đắp thì đo xem đắp mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền. Đắp đê Đỉnh Nhĩ bắt đầu từ đấy". Qua các tài liệu lịch sử triều đại thì các công trình thuỷ lợi dẫn nước, tiêu nước sản xuất nông nghiệp ở thời nhà Trần phát triển rất cao. Trần Thủ Độ huy động không chỉ sức dân mà còn lệnh cho binh lính phải tham gia làm thuỷ lợi. "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi: "Tân Mão năm thứ 7 (1231), (Tống Thiên Định năm thứ 4), mùa xuân, tháng giêng, sai Nội Minh Tự là Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) trông coi các binh hữu đường phủ, đào vét các kênh trầm và hào từ phủ Thanh Hoá đến cõi Nam Diễn Châu". Được sự tấu trình của Trần Độ, Trần Cảnh xuống chiếu cho cả nước Đại Việt dùng tiền "tinh bạch", mỗi tiền là 60 đồng (tiền nộp cho nhà nước là tiền thượng cung thì mỗi tiền là 70 đồng). "Năm Bính Thìn (1236), mùa xuân, tháng giêng, định lệ cấp lương bổng cho các quan văn võ trong triều và các quan ở cung điện, lăng miếu, chia tiền thuế ban cấp theo thứ bậc". Không những thế, Trần Thủ Độ còn bỏ tiền đánh thuế bằng hiện vật, thu thuế bằng tiền mặt. Một sự đổi mới chính sách thuế theo sở hữu ruộng đất cũng là một việc làm hơn hẳn các triều đại trước. Nó thể hiện tư duy phát triển kinh tế rất cao của Trần Thủ Độ: "Nhân dân có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả... (riêng tô vẫn thu bằng thóc)". "Tháng Chín, xuống chiếu cho các ty xét án được lấy tiền bình bạc" hoặc "duyệt sổ đinh" để thu thuế và cũng là để điều động xây dựng kinh tế, thành lập ra 61 phường ở kinh thành để quản lý việc giao thương. Rõ ràng, dưới sự quản lý và chỉ đạo của Trần Thủ Độ, kinh tế Đại Việt đã phát triển mạnh mẽ, việc buôn bán giao lưu bằng đường bộ, đường sông rất thuận lợi, không những thế ông còn chú trọng mở các thương cảng ven sông, biển để đẩy mạnh việc giao lưu buôn bán hàng hoá trong nước và ngoài nước. Không chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà ông còn chủ trương phát triển Nho học. Trần Thủ Độ tâu vua cho xây Quốc Tử Giám, đẩy mạnh việc thi cử để tuyển chọn hiền tài cho đất nước: "Tháng 2 (1232), thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm, đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu, đệ tam giáp là Trần Chu Phổ". "Đinh Mùi năm thứ 16 (1247), mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn học trò. Cho Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ thám hoa, lấy đỗ thái học sinh 48 người". Chính nhờ sự chú ý và coi trọng (hiền tài là nguyên khí quốc gia) nên thời nhà Trần đã xuất hiện rất nhiều hiền tài phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt là trong ba cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông, các nhân sĩ, tướng lĩnh Đại Việt, tuổi trẻ tài cao đã góp phần làm vẻ vang cho lịch sử dân tộc như: Nguyễn Hiền, Đặng Ma La, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải v.v...
Trần Thủ Độ còn hoạch định: "Chép công việc của quốc triều làm Bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển" (Sđd).
Ông đề ra khung bậc, thể thức của luật hình. Tạo đường cho Bộ Quốc triều hình luật ra đời để tiện việc nắm tình hình đất nước, quản lý chặt chẽ hơn. Trần Thủ Độ chia nước thành 12 lộ, mỗi lộ đặt chức chánh phủ xứ. Trần Thủ Độ còn duyệt định hộ khẩu trong cả nước, đặt các chức quan đại tư xã cùng các chức xã chính, xã quan. Không chỉ là người đề ra các tư tưởng pháp trị, mà ông còn để lại cho đời sau tấm gương về tính thẳng thắn, nghiêm túc trong việc thi hành luật. Đối với ông, luật pháp không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, bất cứ ai, dù là đối tượng nào, ở vị trí nào đi chăng nữa, nếu vi phạm lụât pháp đều bị xử lý theo đúng quốc luật đã ban hành. Nặng hay nhẹ tuỳ thuộc vào hành vi vi phạm luật của người đó. "Đại Việt sử ký toàn thư" chép: "Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Trần Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy"... (tr.478). Chính vì vậy, có người khóc với vua rằng : “Bệ hạ trẻ thơ mà Thủ Độ quyền hơn cả vua, đối với xã tắc sẽ ra sao?”. Vua lập tức đến gặp Trần Thủ Độ, mang theo cả người hặc tội theo. Tuy nhiên, thật bất ngờ, Trần Thủ Độ đem tiền lụa thưởng cho kẻ dám hặc tội ông và công nhận người này nói đúng. Tài năng của ông còn được các sử gia chép lại như sau: "khi vua Trần Thái tông muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm tướng, Thủ Độ nói: "An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, nếu cho là thần hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc"... vua bèn thôi". Phải chăng, Trần Thủ Độ đã sớm nhìn ra tính cách hai mặt của anh trai mình? Sự thật sau này An Quốc đã cùng với vợ (tương truyền là một công chúa nhà Lý) nổi loạn chống lại nhà Trần ở Quắc Hương, Vụ Bản, Nam Định. Cuộc nổi loạn đã bị chính Trần Thủ Độ dẹp tan. Phải khẳng định rằng ông là người có bản lĩnh chính trị và cá tính đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Ông làm việc gì cũng dứt khoát, xử lý quyết đoán theo ý chí của mình, ít để cho người khác sai khiến. Trần Thủ Độ là người biết rõ An Sinh Vương Trần Liễu định làm phản và định chém vị này. Nhưng ông cũng là người dù có thực quyền trong tay nhưng vẫn đồng ý với vua Trần Thái Tông tin dùng Trần Quốc Tuấn. Trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Quốc Tuấn là tướng chỉ huy lực lượng giữ biên ải; để rồi ở hai cuộc kháng chiến sau giữ chức tổng chỉ huy quân đội. Điều này chứng tỏ, Trần Thủ Độ không bị các định kiến chi phối, nhìn nhận sự việc rõ ràng, công minh. Chuyện khác: Vợ của Trần Thủ Độ là Linh Từ quốc mẫu khi đi qua chỗ thềm cấm bị người quân hiệu ngăn không cho đi. Quốc mẫu về khóc và mách với Trần Thủ Độ, vị thái sư cho người bắt người quân hiệu đến và khen: “Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa” và lấy vàng lụa thưởng cho về…Chuyện nữa: Quốc mẫu xin cho một người làm câu đương. Đây là chức rất nhỏ, chỉ là người chuyên bắt bớ, áp giải trong làng. Chức nhỏ như vậy mà phải cậy nhờ Quốc mẫu xin thái sư. Sách viết: “Trần Thủ Độ gật đầu và biên lấy họ tên, quê quán của người ấy. Khi xét đến xã ấy, hỏi rằng tên ấy đâu. Người ấy mừng chạy đến. Thủ Độ nói: Người vì có công chúa xin cho được làm câu đương, không ví với người làm câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác. Người ấy kêu van xin thôi, hồi lâu mới tha cho”. Sách còn viết, từ đấy không ai dám đến nhà thăm riêng của thái sư Trần Thủ Độ hòng lo lót, xin vợ ông giúp đỡ nữa. Những chuyện về cách xử lý công việc phân minh của Trần Thủ Độ được sách sử ghi lại. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét: “Thủ Độ tuy làm tể tướng mà phàm công việc không việc gì là không để ý. Vì thế mà giúp nên nghiệp vương, ”. Sử chép: "Giáp Tý năm thứ 7 (1264), Tống cảnh định năm thứ 5, Nguyên chí nguyên năm thứ 1, mùa xuân, tháng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ chết (tuổi 71), truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương". Khu lăng mộ của ông được xây dựng tại Thái Bình.