Thầy Chu Văn An hiệu là Tiều Ẩn – tự là Linh Triệt, thuỵ là Văn Trinh. Sinh ngày 25 tháng 8 năm Nhâm Thìn niên hiệu Trùng Hưng thứ 2 (1292) tại thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Trì (nay thuộc thành phố Hà Nội). Cha là Chu Văn Thiện, mẹ là Lê Thị Chuân.
Tiểu sử
Thuở nhỏ sớm có nghị lực, ông học rất giỏi, nghiêm khắc sửa mình, cương trực thẳng thắn, không màng danh lợi. (theo thần tích tại quê Thanh Liệt – Thanh Trì - Hà Nội, ông đỗ Tiến sỹ năm 12 tuổi). Mặc dù đỗ đạt cao nhưng ông không ra làm quan mà ở nhà đọc sách và dạy học tại thôn Văn. Trường Huỳnh Cung của thầy là cái nôi đào tạo hiền tài khắp xa gần. Có học trò là vương tôn, công tử, có học trò khoác áo thường dân, lại có cả học trò không phải người phàm tục. Chu Văn An thường nói với các học trò của thầy rằng: Ta chỉ dạy cho các trò làm nguời chứ không dạy cho các trò làm quan. Học trò của thầy nhiều người đỗ đạt cao vẫn giữ đức thanh liêm và làm nên sự nghiệp lớn như: Lê Quát, Phạm Sư Mạnh. Cảm mến tài đức của thầy, vua Trần Minh Tông mời thầy về Thăng Long làm Tư nghiệp Quốc Tử giám và dạy thái tử học.
Khi Trần Dụ Tông lên ngôi, vua ham thích vui chơi, trễ nải việc chính trị, bề tôi nhiều người vi phạm phép nước, đời sống nhân dân khổ cực cơ hàn – sưu cao thuế nặng, bọn gian thần thì lộng quyền hà khắc ức hiếp dân lành. Vận mệnh đất nước ảm đạm bởi lũ quan tham. Thấy được tội ác tầy trời của những kẻ nịnh thần cần phải xử nghiêm để giữ yên kỷ cương phép nước, nhiều lần Chu Văn An thẳng thắn khuyên vua sửa trị nhưng vua không nghe. Thầy bèn dâng “Thất trảm sớ” xin chém đầu 7 tên nịnh thần nhưng vua bỏ qua không xem xét. (Mai Thọ Đức, Trâu Canh, Bùi Khâm, Văn Hiến, Nguyễn Thanh Lương, Tâm Đức Ngưu, Đoàn Nhữ Cẩu). Đau lòng trước nhân tình, thế thái thầy từ quan, treo mũ áo tại cửa Huyền Vũ, về núi Phượng Hoàng, Chí Linh, dựng nhà dạy học, tìm cây thuốc chữa bệnh, làm thơ, viết sách lưu lại cho hậu thế. Sống giữa tùng xanh, trúc biếc, lấy tên Tiều Ẩn – ví mình như một tiều phu ẩn dật trong rừng.
Tuy Chu Văn An ở chốn lâm tuyền nhưng tấm lòng vẫn đau đáu vận mệnh quốc gia. Và triều đình cũng không quên một nhân tài mẫu mực. Khi triều chính có đại sự, bao giờ cũng mời ông về tham dự. Mỗi lần như thế ông đều tâu bày thẳng thắn, hy vọng giữ vững kỉ cương, làm cho quốc thái, dân an, thể hiện một nhân cách lớn. Vua thường cho người mang lễ vật đến nhà ban tặng. Thầy thường từ chối và nếu có nhận lại đem chia cho mọi người.
Năm 1370, Trần Nghệ Tông lên ngôi thầy cả mừng, tuy tuổi đã cao, vẫn chống gậy về kinh bái yết. Vua ban chức gì ông cũng không nhận. Sau lễ bái yết, thầy trở lại nhà riêng ở Phượng Hoàng và mất tại đây vào ngày 26 tháng 11 năm Canh Tuất (1370) thọ 79 tuổi.
Vua Nghệ Tông được tin liền cho quan triều đến tế, đặt tên Thụy là Văn Trinh, hiệu là: Tiều Ẩn Khang Tiết tiên sinh, sắc phong Thượng Đẳng Thần và cho phối thờ tại Văn Miếu, ban tiền làm đền thờ ở 27 xã có môn sinh của Chu Văn An. Đây là trường hợp đặc biệt của giới nho sĩ nước nhà. Sau khi thầy mất, học trò làm nhà bên mộ đến cả năm, tế lễ để tỏ lòng thương tiếc thầy. Lịch sử dân tộc tôn vinh thầy là nhà nho có đức nghiệp lớn nhất. Sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bàn: “Văn Trinh Công thờ vua thì nói thẳng trước mặt; việc xuất hay xử đều có lí lẽ, rèn đúc nhân tài thành công khanh; cao thượng, tiết tháo, thiên tử cũng không bắt nổi làm tôi, nét mặt nghiêm nghị mà đạo làm thầy được tôn; lời nói lẫm liệt mà kẻ nịnh phải sợ. Đáng là bậc tôn sư của nhà nho nước Nam ta”.
Sự nghiệp của Chu Văn An là sự nghiệp của một nhà giáo mẫu mực của muôn đời, là tấm gương sáng cho hậu thế noi theo. Sinh thời thầy có làm thơ, viết sách, nghiên cứu y dược, Chu Văn An biên soạn nhiều sách để dạy học và sáng tác nhiều thơ văn như: Tứ thư thuyết ước, Tiều Ẩn thi tập, Tiều Ẩn quốc ngữ thi tập, Y học yếu giải…Nay phần lớn đã thất truyền, chỉ còn lại 12 bài thơ chữ Hán và tập Y học yếu giải. Những bài thơ còn lại đến nay phần lớn được sáng tác trong những năm cuối đời ở Phượng Hoàng như các bài: Linh sơn tạp hứng, Thanh Lương giang, Miết trì, Xuân đán, Sơ hạ…
Trong sự nghiệp giáo dục, Chu Văn An có nhiều cải cách tiến bộ khiến cho đương thời và mãi mãi về sau ghi nhận và trân trọng. Thầy là người đầu tiên truyền đạo Nho của Khổng Tử sang Việt Nam thành một đạo riêng biệt của người Việt đó là “Hữu giáo vô loại”, tức là nền giáo dục đi tới muôn dân.
Trong khắp các nhà trường của chúng ta ngày nay đều dạy học sinh theo quan điểm “Học đi đôi với hành” Điều này 700 năm trước thầy Chu Văn An đã nói: “ Học mới chỉ là mắt, hành mới có chân. Có mắt, có chân mới tiến được, có biết mới làm được, có làm mới biết. Nhưng cái biết trong làm mới là cái biết thiết thực, cái biết sâu sắc nhất.
Đã hơn sáu thế kỷ, kể từ khi Chu Văn An qua đời, những tư liệu viết về ông đã thất lạc nhiều, di tích liên quan đến ông cũng thay hình đổi dạng. thế nhưng, những gì người đời viết về ông còn lại đến hôm nay đều là những lời lẽ trân trọng, chí tình về một nhà giáo tài đức vẹn toàn. Những di tích dù ở chốn rừng sâu hay giữa đô thành hoa lệ đều có sức hấp dẫn lạ thường và được nhân dân nhiệt tâm gìn giữ.
Sau khi Chu Văn An qua đời, tại nơi thầy làm nhà dạy học và sống những năm tháng thoái triều đã được dựng ngôi đền thờ thầy gọi là đền Phượng Hoàng.
Di tích đền Thầy cách đây 700 năm chỉ còn lại phế tích. Được sự quan tâm của Đảng, nhà nước, các ban ngành đoàn thể đặc biệt là ngành giáo dục đã tiến hành cuộc đại trùng tu và tôn tạo các hạng mục công trình tại khu di tích bằng công đức của giáo viên và học sinh cả nước nhằm phát huy truyền thống văn hóa – giáo dục của nước nhà. Không chỉ vậy còn biến Phượng Hoàng thành một điểm du lịch thú vị của Chí Linh.
Đền thờ thầy giáo Chu Văn An
Đền thờ tọa lạc trên núi Phượng Hoàng. Còn được gọi là “Phượng Sơn linh từ”. Đền được xây dựng trên một thế đất cao, rộng và linh thiêng. Đền được xây dựng theo thuyết phong thuỷ của người xưa, phía trước có núi Ngọc làm tiền án, phía sau có núi Phượng làm hậu trẩm, hai bên là núi Kì lân và núi Phượng Hoàng như sải cánh của con chim phượng.
Đền Chu Văn An kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, dựa theo kiến trúc thời Nguyễn, chồng diêm hai tầng tám mái. Nghệ thuật trang trí của đền theo đề tài tứ linh, tứ quý: long, ly, quy, phượng, tùng, cúc, trúc, mai. Các bức y môn sơn son thiếp vàng trang trí theo hình tượng: rồng chầu hoa cúc mãn khai.
Đền thờ Chu Văn An gồm năm gian tiền tế và một gian Hậu cung. Có 5 ban thờ: Phía trong Hậu cung đặt tượng thờ thầy giáo Chu Văn An, tượng bằng đồng, nặng 100kg trị giá 79 triệu đồng do ĐH Kiến trúc công đức, trên là bức đại tự với hàng chữ “Vệ dực chính đạo”. Ban tiếp theo là thờ gia tiên họ Chu, bên trên có bức đại tự “Chính học thuần hành”. Ban chính giữa là ban công đồng, có 3 bức đại tự: Bức ở giữa “Chấn phấn Nho học”; bức bên trái là “Minh thánh đạo”; bức bên phải là “Nhân trí dũng” và toàn bộ hoành phi câu đối ca ngợi đức độ Chu Văn An. Ban phía bên tay phải từ trong ra là ban thờ học trò thầy Chu Văn An, ban bên trái thờ Sơn thần Phượng Hoàng.
Kiến trúc giai đoạn một bao gồm các hạng mục công trình: đền chính, sân thượng, các bậc đá, hai đuôi rồng đá, sân chung với hai nhà giải vũ, sân hạ và hai nhà bia. Đặc biệt hai rồng đá kiến trúc theo kiểu rồng thời Trần chắc, khoẻ, các bậc đá đều xây dựng theo kiểu thất trảm sớ (có 7 bậc).
Lăng mộ Thầy Chu Văn An
Lăng mộ Thầy tọa lạc trên mỏm núi Phượng Hoàng giữa rừng thông bát ngát, cảnh quan thiên nhiên khu lăng mộ Chu Văn An khá đẹp.
Di tích đền thờ nhà giáo Chu Văn An được khôi phục, tôn tạo lại vào năm 1997, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân xa gần cũng như giáo giới trong cả nước . Kiến trúc xây liền khối theo hình chữ nhật theo hướng Đông Nam. Trang trí mỹ thuật chính tập trung khắc hoạ hình tượng: Cuốn sách và giải bút nhọn thể hiện cho đức nghiệp thanh cao, trong sáng vì sự nghiệp giáo dục đất nước của thầy Chu Văn An.
Điện Lưu Quang nằm bên phải đền về phía tây – tương truyền là nơi Thầy dạy học khi về núi Phượng Hoàng
Đến với mảnh đất Chí Linh là đến với một mảnh đất láng hồn thiêng sông núi. Thiên nhiên thơ mộng và khí thiêng sông núi nơi đây đã đi vào thơ ca, nhạc, họa tự bao đời. Mảnh đất này không chỉ làm say lòng các tao nhân mặc khách tài hoa mà còn nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người khiến ta yêu thiên nhiên và say mê cái đẹp. Mỗi khi lòng mình u ẩn bởi những lo toan, tất bật của cuộc sống thường nhật hay mệt mỏi trước thế thái nhân tình, hãy tìm về với sông núi nơi đây, đắm mình trong sắc biếc của thông mã vĩ, lặng nghe tiếng suối reo rì rào, bao mệt mỏi buồn lo sẽ tan đi và lại thấy bao điều kì diệu sẽ mở ra trước mắt.
Phong tục - Lễ hội: (Theo âm lịch)
Đền thờ nhà giáo Chu Văn An đã trở thành một địa chỉ tâm linh cho các thầy cô giáo, các em học sinh và nhân dân cả nước. Vào những ngày lễ du khách về chiêm bái đền Thầy rất đông. Nhiều sở giáo dục, phòng giáo dục, nhiều trường đến đền Thầy làm lễ dâng hương, phát thưởng, xin chữ thánh hiền cho giáo viên và học sinh.
- Lễ hội mùa xuân: diễn ra vào tháng Giêng
- Lễ hội mùa thu: diễn ra vào tháng 8 – mùa khai giảng. (lễ chính ngày 25 tháng 8 – Sinh nhật Thầy)
- Lễ hội Về Nguồn: diễn ra vào 26 tháng 11 – tưởng niệm ngày mất của Thầy.
- Trước khi vào mùa thi khách đến lễ Thầy xin lộc thi cử rất đông
- Những năm gần đây, Ngày 20 – 11, rất nhiều du khách đến dâng hương Thầy.