Ba năm sau Tết 1968, Thiệu lại cho phép đốt pháo vào dịp Nguyên đán 1971. Cũng như lần trước, Thiệu muốn tỏ “bản lĩnh”, làm ra vẻ tình hình miền Nam yên ắng lắm. Và rồi, lần này, xui xẻo lại đến với quân đội Sài Gòn sau những loạt pháo đầu năm.
Mặt trận không nổ ra tại thành phố mà chuyển lên vùng rừng núi hạ Lào. Tiếng dội của nó vẫn có sức rung chuyển đến tận tòa Bạch Ốc báo hiệu sự phá sản hoàn toàn chủ trương “Việt Nam hóa chiến tranh” của Nixon tiến hành từ 2 năm trước. Bấy giờ theo hồi ký của Nguyễn Cao Kỳ, quân Sài Gòn đã thêm 400.000 người sau lệnh tổng động viên 18 đến 38 tuổi (1968-1969), nâng tổng số quân lên 1.000.000 người (cuối năm 1970) và trong vòng trên dưới 3 năm Mỹ chuyển giao Sài Gòn 1.000.000 vũ khí, 46.000 quân xa, 1.100 máy bay gồm cả trực thăng…
Sau quá trình “chuyển giao” trên, Mỹ và Sài Gòn muốn chứng tỏ sự “trưởng thành của quân đội Việt Nam Cộng hòa” đã mở cuộc hành quân quy mô do binh lính Sài Gòn đảm nhiệm “nhằm đánh cắt đường mòn Hồ Chí Minh và tiêu diệt đất thánh cộng sản ở Lào”! Mỹ cay cú đường vận chuyển chiến lược thường gọi “đường mòn Hồ Chí Minh” mà chỉ riêng sát thời điểm mở cuộc hành quân trên có đến 40.000 tấn hàng chảy vào Nam trong năm 1970. So với hoàn cảnh thời đó, con số ấy có ý nghĩa lớn, nó gấp 10 lần năm 1969!
Trước ngày hành quân, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird đã có chuyến đi điều tra mật về tình hình miền Nam Việt Nam. Ông báo cáo kết quả tại cuộc họp do Tổng thống Nixon triệu tập, với sự có mặt của Kissinger, Rogers, Alexander Haig, Đô đốc Thomas H.Moorer, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ, và Helms, Giám đốc CIA.
Liền đó Nixon cho phép đưa “kế hoạch hành quân tuyệt vời trên giấy” (như Kissinger gọi) vào thực tế chiến trường. Hồi ký Nixon giải thích để tránh dư luận Mỹ chỉ trích và để tỏ sự “thành công” của Việt Nam hóa chiến tranh nên Mỹ không đóng vai trò chủ lực trong cuộc tấn công; Mỹ chỉ đạo nhưng “đứng đằng sau” yểm trợ bằng pháo đài bay B.52, các máy bay chiến đấu khác, đảm nhiệm chuyển vận, rót trọng pháo và ngay cả tên cuộc hành quân vẫn là Việt Nam: Lam Sơn 719!
Để lót đuờng “xuất hành” cho quân Sài Gòn, từ mồng 3 Tết Tân Hợi, nhằm 30.1.1971, lực lượng Mỹ ở phía Nam sông Bến Hải lặng lẽ triển khai, tạo một bàn đạp vững chắc phóng sang Lào. Suốt 7 ngày sau đó những vị trí chiến thuật then chốt ở Quảng Trị nhanh chóng được chiếm lĩnh để ba cánh quân Sài Gòn gồm bộ binh, lính nhảy dù và thiết giáp sẵn sàng vượt biên giới.
Thiệu, với danh nghĩa tổng thống kiêm tổng tư lệnh quân đội Sài Gòn, xuất hiện nói chuyện với số đông quân thiện chiến đội nón sắt đang sắp hàng ngoài trời trước giờ ra trận. Ông đã tung vào cuộc 2 sư đoàn tinh nhuệ nhất của “quân lực Việt Nam Cộng hòa” trong đó có sư đoàn thủy quân lục chiến. Họ đã bỏ sau lưng dư hương ngày Tết và dấn thân vào tử địa sau lệnh xuất phát ngày 8.2.1971 tiến về Tchépone qua đường 9 Nam Lào. Một chảo lửa đang chực cháy chờ họ.
Theo thuật lại của cố vấn tổng thống Thiệu, “tướng Võ Nguyên Giáp huy động lực lượng (…) gồm cả thiết giáp được trang bị xe tăng Liên Xô” đón đánh. Ngày tiến quân đầu tiên trận địa không đến nỗi kinh hoàng như 4 ngày tiếp đó, hễ “bất kỳ nơi nào quân lính Nam Việt Nam tấn công đều thấy quân đội Bắc Việt dường như đã có ở đó và sẵn sàng đợi họ”. Mới non một tuần, con số thương vong của quân Sài Gòn lên đến 3.000.
Càng hoảng hốt, mục tiêu Tchépone càng xa tầm súng. Từ Mỹ, Lầu Năm Góc điện hỏi tới tấp đại sứ Bunker và bộ chỉ huy lực lượng Mỹ ở Sài Gòn. Thiệu sốt ruột lệnh tướng Hoàng Xuân Lãm bằng mọi giá “chiếm lấy Tchépone nhưng không cần cố giữ lấy nó”. Miễn sao tin tức loan đi “chiếm Tchépone” thôi, còn ngay sau đấy rút liền cũng được.Nhưng ngót nửa tháng tiến đánh, đội quân tinh nhuệ nhất vẫn mắc kẹt trên đường, số tử thương tăng lên từng ngày, việc tải xác chết khỏi mặt trận không làm xuể và “ma sự” bắt đầu ám ảnh mạnh đến tinh thần binh lính.
Qua ngày thứ 15, thời hạn chiếm Tchépone như dự định “tuyệt vời trên giấy” vụt qua. Cựu tư lệnh Mỹ ở Sài Gòn, tướng Westmoreland được Kissinger tham vấn ngay về tình hình chiến trận khi đó, đã nhận định ít nhất phải có 4 sư đoàn Mỹ mới tiến chiếm và giữ được Tchépone, chứ 2 sư đoàn Sài Gòn dù là “tinh nhuệ nhất” vẫn chịu chết. Điều đó thấy rõ vào ngày thứ 25 của cuộc hành quân lúc đại binh Sài Gòn bị đánh tan nát trong các đợt đổ quân liều lĩnh gần Tchépone, để rồi:
“Chiến dịch kết thúc sau 44 ngày. Con số thương vong cao: 8.000 người, là một yếu tố làm suy nhược ý chí chiến đấu của Nam Việt Nam”.
Số liệu và nhận xét trên được ghi lại bởi “cố vấn đặc biệt của Tổng thống Thiệu” qua cuốn Từ tòa Bạch Ôc đến dinh Độc Lập (Nguyên tác: The Palace File – TS Nguyễn Tiến Hưng – Jerrold Schecter, nhiều người dịch, NXB Trẻ). Cuốn sách viết là đối với Thiệu sự thiếu hụt số trực thăng Mỹ cần thiết cho trận đánh ảnh hưởng đến cuộc hành quân:
“Ba ngày sau khi bắt đầu chiến dịch số phi công trực thăng Mỹ bị thương vong quá nhiều (…). Các phi công rất miễn cưỡng trong việc tiếp tục tải xác chết đúng lúc và đúng cách. Chính điều ấy gây chướng ngại cho binh lính Nam Việt Nam. Chúng tôi không làm cách nào để chở khỏi trận địa số binh sĩ tử thương hoặc bị thương, khiến ảnh hưởng không những đến tinh thần chiến đấu mà còn kềm hãm tiến trình chung của chiến dịch (…). Niềm tin đầu năm mới tiêu tan vì số thương binh của chiến dịch Lam Sơn đã lấp đầy các giường bệnh ”. Chứng kiến cảnh trực thăng tải thương bay như chuồn chuồn sa mưa từ Lào về, dân miền Trung thời đó có câu ca truyền khẩu:
Ai Lao đi dễ khó về
Khi đi áo giáp, khi về áo quan
Ai Lao đi dễ khó sang
Khi đi áo giáp, áo quan khi về!
Đường mòn Hồ Chí Minh vẫn thông xe. Chiến trường xa nhất của Nam bộ nhận được 4.000 tấn hàng năm 1971, tăng gấp đôi trước ngày có “cuộc chơi” Lam Sơn 719 vơi cái giá mà Sài Gòn phải trả cho hư không hơn 8.000 mạng sống. Nguyễn Cao Kỳ kêu: “Làm sao có thể khác được?”
Nguồn tin: Nghiên cứu Lịch sử tổng hợp từ Một thế giới Các bài viết trên trang thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không phải quan điểm của Dự án Nghiên cứu Quốc tế. © Bản quyền các bài viết và bài dịch thuộc về các tác giả, dịch giả và Dự án Nghiên cứ:
Ý kiến bạn đọc