Năm 1971, choáng váng bởi tổn thất nặng sau chiến dịch Lam Sơn 719, ông Thiệu nhờ Trần Văn Đôn nói với đại tướng Cao Văn Viên (trong hình), Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn, hãy quét tầm nhìn chiến lược đến các quân khu, chịu khó tiếp xúc với các tư lệnh vùng để tăng cường quân lực, chứ đừng ở mãi trong văn phòng riêng như ông Viên vẫn làm.
Tại sao ông Thiệu không trực tiếp nói với Cao Văn Viên mà phải nhờ Trần Văn Đôn? Bởi Thiệu có nói nhưng đại tướng Viên vẫn không nhúc nhích, cứ ngồi một chỗ để chỉ huy ngót một triệu quân qua…điện đàm là chính. Ông Đôn gặp Cao Văn Viên hỏi lý do. Ông Viên bảo:
“Tôi đã xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp thuận nên tôi cứ ở văn phòng làm việc mà thôi!”
Trong khi đất nước có chiến tranh, nhất là năm 1972 chiến trường sôi động, mà ông Tổng tham mưu trưởng chỉ “ngồi văn phòng làm việc miễn cưỡng” làm sao các sĩ quan binh lính ngoài mặt trận khỏi dị nghị được? Ông Đôn viết trong hồi ký như thế và thêm:
“Tôi hỏi ông Thiệu:
– Nếu tổng thống không bằng lòng…thì sao không đổi người khác để làm việc hữu hiệu hơn?
– Hai người này (kể thêm Trần Thiện Khiêm, thủ tướng) là người của Mỹ chọn, nếu tôi đổi hai người này thì Mỹ sẽ phản đối, tôi sẽ gặp nhiều khó khăn. Cái khó khăn của tôi âu cũng nghĩ chỉ là (chỉ) đối đầu với Cộng sản. Thật ra trở ngại và khó khăn cho tôi là Mỹ. Ví dụ như việc bổ nhiệm người trong nội các, người nào Mỹ không phản đối thì được, còn phản đối thì khó mà làm việc”.
Rõ vậy! Ngay Cao Văn Viên có lần ngán ngẩm buột miệng sổ toẹt về tính chất “tầm gửi” của đội quân Sài Gòn vào Mỹ khi phái đoàn nghị sĩ và dân biểu đến gặp để hỏi “về chiến lược quân sự của Bộ Tổng tham mưu”:
– Chúng ta không có trách nhiệm về chiến tranh (!). Trách nhiệm chiến đấu ở đây là người Mỹ. Chính sách đó do họ đề ra, chúng ta chỉ theo họ mà thôi!
Câu trả lời quá rõ. Xin miễn bàn.
Cứ như thế, ông Viên tà tà đến bàn giấy làm việc hệt cung cách công chức. Vềnhà, theo người thân kể lại, ông quẳng những ưu tư ven đường, dường như không nghĩ tới tấm bản đồ hành quân, hoặc cục diện chiến trường, mà suy tưởng đến những chuyện đâu đâu ngoài cõi thực. Nhưng oái ăm, chính một phần vì thái độ đó mà đại sứ Mỹ… yên tâm! Trần Văn Đôn kể:
“Mỗi khi Mỹ đề nghị điều gì khó khăn, nếu về hành chính thì Tổng thống Thiệu giao cho Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, còn về quân sự thì giao cho Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên. Dĩ nhiên hai ông này sẽ làm theo đường lối của Mỹ. Hai ông này không hẳn thích Mỹ nhưng trải qua kinh nghiệm của những người đi trước họ hiểu rằng muốn sống yên trên địa vị cao sang của mình thì phải chiều theo ý của Mỹ. Vì vậy mà Mỹ thích hai ông đó nắm trọn lực lượng quân sự và chính trị trong nước. Đó cũng là cách hay nhất để nắm luôn Tổng thống Thiệu bởi vì nếu cần thì… hai người đó sẽ đảo chính dễ dàng!”
Thiệu hẳn nhiên dùng nhiều biện pháp đề phòng những người quanh mình. Ông đặt máy truyền tin trong phòng làm việc để khi cần liên lạc nói chuyện thẳng với tư lệnh 4 vùng chiến thuật, hoặc trực tiếp điều động các sư đoàn cứu viện. Cẩn thận hơn, ông Thiệu đặt Phòng hành quân sát phòng mình và giao sĩ quan trực đảm nhiệm theo dõi, ghi chép hướng di chuyển của các đơn vị lớn thuộc các binh chủng.
Vào mỗi sáng, ngoài việc nắm tình hình qua báo cáo, ông còn nghe ngóng động tĩnh tại các quân khu bằng hệ thống truyền tin riêng không nhất thiết phải qua trung gian của Bộ Tổng tham mưu. Hệ thống đó cũng cho phép Thiệu gọi đến tận các địa phương để trực tiếp ra lệnh cho các tỉnh trưởng, thị trưởng trong trường hợp cấp bách. Dẫu hết sức cảnh giác, đảo mắt quan sát các tướng tá thân cận, nhưng Thiệu lại không mặn mà lắm với ý kiến của cố vấn Hoàng Đức Nhã khi Nhã thúc hãy thay gấp hai ông Trần Thiện Khiêm và Cao Văn Viên.
Vì theo Thiệu, đó là hai viên tướng ăn cánh “lâu đời” với ông ta, không dễ gì trở mặt phản phé được. Nếu họ không làm việc tốt so với trọng trách đã giao thì ít ra họ cũng án ngữ giùm ông hai cánh cổng quyền lực của chế độ mà nhiều đối thủ dòm ngó. Huống gì ông Thiệu rất mực tin tưởng vào “lòng trung thành” của Cao Văn Viên vốn từng biểu lộ trong phút lâm chung của Ngô triều.
Theo hồi ký Đỗ Mậu, đêm xảy ra đảo chính Diệm 1.11.1963: “tại văn phòng của tướng Khiêm, nơi được chọn làm bộ chỉ huy, tướng Dương Văn Minh, hỏi từng người “ai theo cách mạng” (phe đảo chính) và ai còn theo ông Diệm”? Tất cả đều hoan hỉ trả lời: “Theo cách mạng!” trừ đại tá Cao Văn Viên, tư lệnh quân nhảy dù, trả lời:
– Tôi là một quân nhân kỷ luật. Tôi không làm chính trị, tôi chỉ biết tuân lệnh Tổng thống Diệm”.
Thời còn cấp bậc trung úy vào năm 1953, Đỗ Mậu cùng Cao Vãn Viên và Nguyễn Văn Thiệu gặp nhau tại Hưng Yên. Ông Mậu cho biết: “Chúng tôi coi nhau như bạn thân. Cao Văn Viên là người ít nói trong lúc Thiệu và tôi hay thảo luận chính trị, thời thế”.Năm 1958, Ngô Đình Diệm đưa Cao Văn Viên về dinh Độc Lập giữ chức Tham mưu trưởng biệt bộ.
Khi Nguyễn Chánh Thi đem lữ đoàn nhảy dù tấn công dinh Độc Lập mưu đảo chính Diệm nhưng thất bại phải chạy qua Campuchia tỵ nạn; ông Diệm giao Cao Văn Viên chỉ huy lữ đoàn nhảy dù thay ông Thi – đồng thời thăng cấp cho ông Viên lên đại tá. Trong lúc ông Viên gắng giữ trách nhiệm ở phạm vi được giao thì vợ ông lại là một “phu nhân” hiếu động cộng tác đắc lực với bà Nhu trong “phong trào phụ nữ liên đới”.
Người đương thời cho là dưới trào ông Diệm có ba “bà tướng”. Bà Thái Quang Hoàng dám đấu khẩu với bà Ngô Đình Nhu về vụ đảo chính hụt của quân nhảy dù. Bà Nguyễn Văn Là “thiện xạ số hai” sau “thiện xạ số một” Ngô Đình Lệ Thủy (con bà cố vấn Nhu) xuất hiện đêm đêm trên màn ảnh xi-nê để thi nhau tác xạ vào… bong bóng, hoặc bò qua các lỗ châu mai giả định tại “chiến trường Thị Nghè”! Bà Cao Văn Viên thích nổi tiếng tương tự. Trở lại chuyện mấy ông chồng, hồi ký Trần Văn Đôn kể hai tướng Trần Thiện Khiêm và Cao
Văn Viên “là đôi bạn thân nhau” nhưng lúc lật đổ chế độ Diệm lại tỏ ra lập trường khác nhau:
“Ngày đảo chính 1.11.1963, thiếu tướng Khiêm sốt sắng tham gia còn đại tá Viên thì trung thành với ông Diệm nên buộc lòng chúng tôi phải giữ lại chung với các sĩ quan cấp tá như Chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt, Chỉ huy trưởng lữ đoàn phòng vệ Phủ tổng thống… Lúc đó từ Bộ Tư lệnh Quân đoàn III (bao gồm Sài Gòn), ông Đính (trung tướng Tôn Thất Đính) điện thoại cho tôi ngỏ ý muốn nói chuyện với đại tá Cao Văn Viên… Tôi cho người đưa ông Viên đến… Ông Viên phân trần (qua điện thoại với Tôn Thất Đính):
– Anh phải hiểu cho tôi, tôi không thể làm việc này được. Tôi không thể theo ủy ban để đảo chính ông cụ được!
Rồi ông Viên trao trả máy cho tôi nói chuyện với ông Đính. Ông Đính nói:
– Nó không chịu theo tụi mình, nhưng anh giữ nó bên cạnh đừng nhốt nó tội nghiệp!
Tôi để Viên ngồi trong văn phòng tôi, từ lúc tôi điều động lính đảo chính cho đến 8 giờ
sáng ngày 2.11.1963, mọi việc xong xuôi tôi cho Viên về nhà”.
Theo tài liệu khác, ban đầu phía đảo chính định khử Viên, nhưng tướng Đính cứu ông, bảo Viên “là người vô hại” nên thôi. Sau Viên được giao chỉ huy sư đoàn dù Sài Gòn. Năm 1975, với cấp bậc đại tướng, Tổng tham mưu trưởng, ông vẫn không nảy sáng kiến mới lạ gì hơn trong việc điều quân khiển tướng mà giữ đúng nội dung “những chỉ thị” của Thiệu về rút lui chiến thuật và dần đến thua trắng miền Nam.
Ngày 28.4.1975, sau khi sắp xếp nội vụ Tổng tham mưu, giao tướng Đồng Văn Khuyên xử lý thường vụ, ông Viên mặc thường phục với áo sơ-mi, quần jean, đáp máy bay sang Bangkok – Thái Lan, với sự hỗ trợ của cơ quan lo việc tản cư của Mỹ DAO.
Tại đó, ông lấy vé hàng không dân sự bay thẳng tới Washington như một du khách. Hồi chế độ Sài Gòn sắp “tàn cuộc hoa này”, nghe nói đại tướng Viên thực tế đã tự về vườn, thường tĩnh tâm trong am nhỏ.
Ở đó ông không ngẫm nghĩ ngày đêm để “chắp tay sau lưng mà vẫn quyết định sự thắng bại ngoài nghìn dặm” theo luật làm tướng ghi trong binh pháp. Mà để trốn khỏi rối rắm và gánh nặng chức trách của người đứng đầu đội quân đông ngót một triệu người! Thời cuộc vẫn để ông ngồi ở vị trí liên quan tới sự sống chết của cả triệu sinh linh một cách hững hờ và miễn cưỡng!
Ở khía cạnh này, tướng Cao Văn Viên là một tổng tham mưu trưởng kỳ lạ nhất của quân đội Sài Gòn “năm xưa”.
Nguồn tin: Nghiên cứu Lịch sử tổng hợp từ Một thế giới Các bài viết trên trang thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không phải quan điểm của Dự án Nghiên cứu Quốc tế. © Bản quyền các bài viết và bài dịch thuộc về các tác giả, dịch giả và Dự án Nghiên cứ:
Ý kiến bạn đọc