Ảnh: trithucvn.net
Vua Lý Thánh Tông là người cho xây dựng Bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên (gọi tắt là Tháp Báo Thiên) vào năm 1056. Ngôi tháp này có 12 tầng và cao 20 trượng (chừng 70m) ở gần hồ Hoàn Kiếm ngày nay. Đây được xem là một trong An Nam tứ đại khí, tức 4 kỳ quan của Đại Việt thời Lý-Trần.
Lý Thánh Tông là vị Vua thứ 3 trong triều đại nhà Lý, trong suốt thời gian ông trị vì, đất nước thái bình, quân sự hùng mạnh, quốc thái dân an. Ông là vị Vua đầu tiên dám xưng danh Đại Việt, nếu không tính thời Hùng Vương, tên Đại Việt chính là tên nước tồn tại lâu dài nhất qua các triều đại với hơn 700 năm, xuyên xuốt qua cả 3 triều đại Lý, Trần, Lê.
Vị vua nhân từ hiếm có: Vua Lý thánh Tông vốn nổi tiếng là một ông Vua nhân từ bậc nhất trong lịch sử, mùa đông giá rét ở trong cung cấm, mặc áo lông cừu Vua còn nghĩ tới tù nhân trong tù bị đói rét, Vua Lý Thánh Tông từng nói với các quan hầu cận, trong Đại Việt sử ký toàn thư còn chép lại:
Ta ở trong cung sâu, sưởi than, mặc áo hồ cừu mà còn lạnh như thế này, huống chi những kẻ ở trong tù, khốn khổ vì trói buộc, phải trái chưa phân minh mà quần áo không đủ, thân thể không có gì che, nên mỗi khi bị cơn gió lạnh khắc nghiệt thì há không chết được người vô tội hay sao, ta vô cùng thương xót.
Lý Thánh Tông còn chủ trương giảm các hình phạt trong nước. Theo Đại Việt sử lược, một trong những hành động đầu tiên của ông sau khi lên ngôi là sai đốt các công cụ tra tấn. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng; vào tháng 6 âm lịch năm 1065,
khi đang ngự ở điện Thiên Khánh để xét án, nhà vua chỉ vào Động Thiên Công Chúa đứng cạnh ông và tuyên bố: Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ nay về sau tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi.
Đánh Tống bình Chiêm: Sau một thời gian căng thẳng giữa hai nước, đặc biệt là Tiêu Chú chi huyện Châu Ung thường xuyên gây sự và khuyên vua Tống tiến đánh Đại Việt. Nắm bắt được được tình hình này Vua Lý Thánh Tông quyết định chủ động.
Tháng 3 năm 1059 Lý Thánh Tông sai quân tướng từ miền đông bắc đánh phá đất Tống, quân Đại Việt đã chiếm các động Cổ Vạn, Tư Lẩm và Chiêm Lăng và giết quan Tống là Lý Duy Tân, đồng thời bắt giữ nhiều quân, dân, vật nuôi. Tống Nhân Tông và các quan lộ ở Quảng Tây phải ra dụ cấm Tiêu Chú gây sự với nước ta, rồi vua Thánh Tông mới rút quân về.
Đến năm 1060, Thánh Tông lại sai Thân Thiệu Thái tấn công đất Tống, giết chết Tống Sĩ Nghiêu cùng 4 tướng thuộc hạ. Quân Tống ở Tây Bình chống cự không nổi. Từ châu Tây Bình, quân Đại Việt tiến tới châu Ung và tấn công trại Vĩnh Bình. Quân Tống lại thua; quân Đại Việt bắt được Chỉ huy sứ Dương Bảo Tài cùng nhiều quân dân. Vua Tống sai Thị lang Bộ lại Dư Tĩnh tung quân lộ Quảng Nam Tây phản kích nhưng không thành công.
Sau các trận đánh trên biên giới, nhà Tống sa thải các quan lại hiếu chiến như Tiêu Cố, Tiêu Chú, đồng thời cử Dư Tĩnh sang điều đình với Đại Việt. Lý Thánh Tông cử Phí Gia Hậu đi hòa đàm, đối đãi với Dư Tĩnh rất hậu nhưng cương quyết không trả Dương Bảo Tài và quân dân bị bắt.
Do Vua Chế Củ đã đình chỉ cống nạp cho nhà Lý năm 1065, đồng thời đến năm 1068 cho quân quấy nhiễu biên giới;
Do đó tháng 2 âm lịch năm 1069, vua Lý Thánh Tông quyết định mở chiến dịch đánh Chiêm;
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Mùa xuân, tháng 2, Vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được Vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Trận này Vua đánh Chiêm Thành mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên Phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hoá hoà hợp. Trong cõi vững vàng, tôn sùng Phật giáo, dân gọi là bà Quan Âm, Vua nói: “Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao?”. Bèn quay lại đánh nữa, thắng được.
Mùa hạ, tháng 6 đem quân về. Tháng 7, Vua từ Chiêm Thành về đến nơi, dâng tù ở Thái Miếu, đổi niên hiệu là Thần Vũ năm thứ nhất. Chế Củ xin dâng ba châu là Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc tội. Vua bằng lòng, tha cho Chế Củ về nước. Những châu ấy nay ở địa hạt các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị.
Đối với Phật giáo và nho giáo: Lý Thánh Tông là một tín đồ Phật giáo mộ đạo. Ông đã cho xây rất nhiều chùa tháp, trong đó có chùa Thiên Phúc, Thiên Thọ, nơi hoàng gia nhà Trần sau này thường lễ Phật. Ông còn dựng các tượng Đế Thích, Phạm Thiên bằng vàng và đúc chuông đồng lớn. Đặc biệt, trong khuôn viên chùa Súng Khánh, nhà Vua sai dựng Bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên (gọi tắt là Tháp Báo Thiên) vào năm 1056. Ngôi tháp này có 12 tầng và cao 20 trượng (chừng 70m) ở gần hồ Hoàn Kiếm ngày nay. Đây được xem là một trong An Nam tứ đại khí, tức 4 kỳ quan của Đại Việt thời Lý-Trần. Lý Thánh Tông còn là một thiền – cư sĩ, được coi là vị Tổ thứ hai của Thiền phái Thảo Đường, một trong ba dòng thiền chính tại Đại Việt thời đó.
Mùa thu năm 1070, nhà Vua đã cho xây dựng Văn Miếu, tạc tượng thờ Chu Công, Khổng Tử cùng 4 học trò xuất sắc. Ông cũng cho vẽ tranh thờ 72 môn sinh của Khổng Tử sai tế lễ bốn mùa. Với việc xây dựng Văn Miếu, tôn thờ đạo nho, Vua Lý Thánh Tông đã mở ra một thời kỳ mới cho giáo dục và cả ý thức hệ ở nước ta. Bởi vì sau đó nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền tảng tử tưởng, chính trị, xã hội và giáo dục nước ta trong nhiều thế kỷ.
Vua Lý Thánh Tông là một trường hợp đặc biệt, hiếm có, ông vừa đề cao phật giáo vừa đề cao nho giáo. Ở ông Phật giáo và Nho giáo được hội tụ, bổ khuyết cho nhau tạo nên một vị Vua rất mạnh mẽ, hiên ngang tuy nhiên lại vô cùng nhân từ và giỏi trị nước. Tại sao ông làm được điều tuyệt vời đó? Bởi vì người tu luyện Phật pháp, tin tưởng nơi Thần, Phật, khi đức tin đủ lớn sẽ được Thần Phật bảo hộ, cấp cho trí huệ . Do đó người tu luyện sẽ được ban cho trí sáng, đức sáng, khi đó sẽ hiểu được đạo lý phải trái trong đời, sứ mệnh của cuộc đời, Vua Lý Thánh Tông đã đạt tới điều đó.
Ông là một vị Vua, do đó trách nhiệm của ông là phải chăm lo cho dân, phải xây dựng một quốc gia cường thịnh. Và để xây dựng được một quốc gia cường thịnh, hài hòa ông hiểu rằng cần phải coi trọng nho giáo, phải phát triển nho giáo, bởi vì ông hiểu đạo nho là nền tảng tư tưởng trị quốc tốt nhất, đạo nho có thể dung hòa mọi mối quan hệ. Phật Pháp là giảng về xuât thế gian, còn Nho giáo giảng về nhập thế gian. Do đó trị quốc nhất định phải dùng nho giáo. Đó là lý do tại sao một thiền sư như ông đề cao nho giáo.
Tu luyện Phật Pháp cao thâm đã giúp ông tu xuất tâm từ bi, đó là lý do tại sao ông xót thương tới cả những phạm nhân trong tù điều mà người bình thường không thể có được.
Vua Lý Thánh Tông đã có rất nhiều công lao đối với dân tộc: Vua Lý Thánh Tông chính là người Đặt tên nước Đại Việt mở ra một kỷ nguyên mới đầy kiêu hãnh trong lịch sử nước ta. Trong triều đại của mình ông tiếp tục duy trì và phát triển Phật giáo lên một tầm cao mới. Vua Lý Thánh Tông cũng là người đặt nền móng cho sự phát triển của Nho giáo ở Việt Nam, đây là một việc có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển và xây dựng lên bản sắc văn hóa, giáo dục cho dân tộc.
Vua Lý Thánh Tông có công lớn Đánh Tống, bình Chiêm Thành, mở rộng lãnh thổ tới Quảng Bình và Quảng Trị, Giữ yên bờ cõi phía Bắc. Xây dựng quân đội hùng mạnh, các nước lân bang đều kiêng dè. Vua Tống buộc phải công nhận Chiêm Thành là chư hầu của Đại Việt, từ năm 1069, 1071 Chân Nạp và Chiêm Thành liên tiếp sang dâng lễ cống.
Trong thời kỳ ông trị vì đất nước thái bình thịnh trị. Ông cho xây dựng rất nhiều chùa tháp có qui mô lớn, đặc biệt là Tháp Báo Thiên niềm kiêu hãnh của Đại Việt thời Lý Trần, rất tiếc là công trình này đã không được bảo tồn!
Vua Lý Thánh Tông là người hết sức nhân từ, yêu thương dân như con, do đó ông được nhiều nhà sử học đánh giá là một trong những vị Vua anh minh nhất trong lịch sử nước ta. Có câu thơ dân gian vẫn thường đọc để ca ngợi về ông:
Lý Thánh Tông một trang nhân Chúa
Giảm việc hình lại sửa việc binh
Gặp khi trong nước thái bình
Chấn hưng đạo học tạc hình Khổng Chu.