Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các Triều đại Phong kiến Việt Nam

Thứ sáu - 03/01/2025 19:16 166 0

Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các Triều đại Phong kiến Việt Nam

Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các Triều đại Phong kiến Việt Nam

PHẦN HAI
CÁC VỊ TRẠNG NGUYÊN, BẢNG NHÃN, THÁM HOA QUA CÁC TRIỀU ĐẠI CỦA VIỆT NAM

Trong Lịch triều hiến chương loại chứ ở phần Kho mục chủ có thể tên từng khoa thi và những người để đầu các khoa thị, từ năm
1246, Vua Trần Thái Tông cho mở Khoa thi Thái học sinh lấy đậu theo Tam giáp (Nhất giáp, Nhị giáp, Tam giáp). Năm 1247, nhà Vua cho đặt lại thứ bậc trong tam giáp: bậc Nhất giáp có Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.
Kể từ khoa thi tuyển Minh kinh bác học đầu tiên của nước ta vào năm Ất Mão (1075), đời vua Lý Nhân Tông đến khoa thi cuối cùng vào năm Kỷ Mùi (1919) đời vua Khải Định, tổng cộng có 185 khoa thi, với 2898 vị đỗ đại khoa, trong đó có 5 thủ khoa (vì thời Lý và đầu triều Trần chưa đặt định chế tam khôi nên chưa gọi các vị thủ khoa là Trạng nguyên) có 46 Trạng nguyên, 48 Bảng nhãn, 76 Thám hoa, 2462 Tiến sĩ và 266 Phó bảng. Các Nhà khoa bảng Việt Nam thực sự là những người đã góp phần xây dựng nền văn hiến vẻ vang lâu đời của dân tộc ta.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc các vị Tam khôi của đất nước Đại Việt ta.

I. DANH SÁCH CÁC VỊ TAM KHÔI TRIỀU TRẦN
1. KHOA BÍNH NGỌ- THIÊN ỨNG CHÍNH BÌNH 15 (1246) TRẦN THÁI TÔNG

A . TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN QUAN QUANG
Người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, nay là thôn Tam Sơn, xã Tam Sơn, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Đỗ Trạng nguyên khoa thi Đại tỉ thủ sĩ năm Bính Ngọ, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình 15 (1246), đời Trần Thái Tông.
Làm quan đến chức Bộc xạ. Khi mất được tặng Đại tư không.
Giai thoại về Nguyễn Quan Quang 2
Ông sinh trong một gia đình nghèo, không có tiền gạo theo học, cậu bé thường phải lân la ngấp nghé ngoài cửa lớp, lúc thầy dạy bọn học trò trong làng sách Tam tự kinh, ông ngồi ngay giữa sân gạch, lấy gạch non viết chữ xuống nền gạch. Một hôm tan học, thầy chợt để ý thấy sân nhà có nhiều chữ, nét viết như phượng múa rồng bay.
Thầy kinh ngạc nói rằng:
Đây mới chính là trò giỏi.
Nói rồi, thầy gọi Quan Quang đến và cho vào học. Quan Quang nổi tiếng thông minh học một biết mười. Chẳng bao lâu, ông đã lầu thông kinh sử, ứng khẩu thành thơ, luận bàn việc đời thông thái, uyên thâm. Gặp khoa thi Hương, ông ứng thi đậu Giải nguyên. Đến thi Hội lại đậu Hội nguyên, khi vua Trần Thái Tông mở khoa thi Đại tỉ thủ sĩ, ông đậu Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên).
Người đương thời cũng như đời sau đều gọi ông là "ông Tam nguyên" và cũng do lẽ ấy mà sau khi ông đậu Trạng nguyên, người ta gọi ông là Quán Quang.
Sau khi vinh quy bái tổ, ông vào chầu vua để được đăng quan. Nhà vua thấy ông cao to, khí phách hơn người, vua tỏ lòng quý mến, mới ban quốc tính. Từ đấy, trong triều ngoài nội đều gọi ông là Trần Quan Quang.
Bấy giờ quân xâm lược Mông Cổ tiến tới biên giới đông như kiến cỏ, lăm le đợi ngày xâm chiếm nước ta. Vua ra chiếu cử Nguyễn Quan Quang sang thương nghị với giặc. Tên tướng giặc nổi tiếng là kiêu hùng
(". LTĐK ghi niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình 15 (1246) nhưng lại ghi sai can chi là Bính Tuất. Năm Bính Tuất khoảng này là năm 1226, Trần Thái Tông mới lên ngôi hoặc năm 1286 là năm quân Nguyên sang đánh nước ta, không có khoa thi. Lại còn vấn đề là năm Thiên Ứng Chính Bình 16 (1247) có khoa thi, lấy Nguyễn Hiền đậu Trạng nguyên. Nếu đúng như LTĐK đã ghi thì liền 2 năm 1246, 1247 đều có khoa thi lấy đỗ hai Trạng nguyên. (2). Theo cuốn “Văn hiến Kinh Bắc” (Tập I) 1997 và thâm thuý, cho rằng Quan Quang đến là để mang ba tấc lưỡi thuyết khách, hắn bèn nghĩ cách dùng uy để chế áp ông. Nhân di qua ao bèo, hắn vớt một cây bèo lên, cầm gọn trong lòng bàn tay rồi bóp chặt. Lát sau, hắn mở ra chìa cho Quan Quang xem: cây bèo đã nát vụn, thế rồi hắn cười sằng sặc ra chiều đắc ý lắm, Quan Quang hiểu rằng tướng giặc tỏ ý coi nước Việt như những cánh bèo non yếu chỉ cần khẽ đánh là tan. Nghĩ vậy, ông liền nhặt một hòn đá rất to rồi ném xuống giữa ao: Bèo dạt ra một khoảng trống, nhưng chỉ giây lát sau những cánh bèo lại sát vào nhau. Tướng giặc tái mặt hiểu rằng: Người Việt đoàn kết toàn dân để bảo vệ giang sơn, không một sức mạnh nào có thể khuất phục được. Chính vì thế, hắn phải hoãn binh không dám tiến quân sang xâm lược nước ta ngay.
Trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258), Nguyễn Quan Quang có nhiều cống hiến nên được nhà Vua thăng đến chức Bộc Xạ, khi làm quan ông hết lòng vì dân vì nước, thanh liêm, trung thực, được trong triều ngoài nội mến phục cả về tài lẫn về đức. Khi về già ông về quê hương mở trường dạy học, sống một cuộc đời thanh đạm và công đức, lấy việc dạy trò làm nguồn vui. Người dân Tam Sơn cho rằng ông là người khai sáng nền Hán học của quê hương, mở đường cho đất "Ba Gò " sau này có "một kho nhân tài ...."
Nơi Nguyễn Quan Quang dạy học về sau dân dựng lên một ngôi chùa để tưởng nhớ đến người "sống như tu " gọi là chùa Linh Khánh. Ngôi chùa ấy qua thời gian và gió bụi nay không còn nữa, nhưng vẫn còn một cây hương đá tạc vào năm Chính Hoà thứ 18 (1697), trong đó ghi công đức của Quan Quang với dân làng.
Sau khi Nguyễn Quan Quang mất, dân làng lập đền thờ trên núi Viềng, gọi là đền Viềng để thờ ông làm thần thành hoàng, gọi là Bản thổ Thành Hoàng, Đại vương phúc thần. Triều đình cũng truy phong cho ông là Đại tư không.
Hàng năm, cứ vào dịp 22 tháng chạp âm lịch, dân làng lại tổ chức "Tế phong mã" để tưởng nhớ tới vị Trạng nguyên tài năng và đầy ân đức, cũng là để nhắc nhở các thế hệ con cháu nối tiếp truyền thống hiếu học, yêu dân, yêu nước của tổ tiên...
B. BẢNG NHÃN PHẠM VĂN TUẤN
Người xã Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giàng. Nay là thôn Nghĩa Phú, xã
Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
Đỗ Bảng nhãn khoa thi Đại tỉ thủ sĩ năm Bính Ngọ niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình 15 (1246), đời Trần Thái Tông.
Làm quan đến chức Hành khiển Bình Chương quân quốc sự, hàm Thái phó, tước Trình quốc công. Khi mất được tặng Tư đồ.
C. THÁM HOA VƯƠNG HƯU PHÙNG
Người xã Sơn Đồng, huyện Đan Phượng. Nay là thôn Sơn Đồng, xã Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây.
Đỗ Thám hoa khoa thi Đại tỉ thủ sĩ năm Bính Ngọ niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình 15 (1246) đời Trần Thái Tông.

Tổng số điểm của bài viết là: 15 trong 3 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 3 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập41
  • Hôm nay4,625
  • Tháng hiện tại83,529
  • Tổng lượt truy cập1,760,662
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây