75. KHOA QUÝ SỬU- TỰ ĐỨC 6 (1853)
A . THÁM HOA NGUYỄN ĐÚC ĐẠT (18 25 - 1887)
Người xã Nam Kinh, tổng Trung Cần, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Nay là thôn Hoành Sơn, xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Con của Nguyễn Đức Hiển, anh của Nguyễn Đức Huy, cha của Nguyễn Đức Đảng, cháu Nguyễn Đức Diệu, anh họ của Nguyễn Đức Quý (Hoàng giáp khoa Giáp Thân- 1884).
Ông sinh năm Ất Dậu (1825), Đỗ cử nhân khoa Đinh Mùi (1847). Năm 30 tuổi, đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh nhất danh (Thám hoa thứ nhất khoa Quý Sửu niên hiệu Tự Đức 6 (1853)3.
(') Theotự thuật của Nguyễn Đức Đạt, ông sinh năm Ất Dậu (1825) nhưng trong bản khai đi thi, Lý trưởng ghi nhầm sang năm Giáp Thân (1824)
(2) (3). Khoa thi này (1853) lấy đỗ hai Thám hoa. Nguyễn Đức Đạt là Thám hoa thứ nhất, gọi làm Thám nhất; Nguyễn Văn Giao là Thám hoa thứ hai gọi là Thám nhì
Lúc đầu ông được bổ chức Thị giảng Tập Hiền viện, sau thăng Cấp sự trung. Được ít lâu, ông xin về quê phụng dưỡng cha mẹ già. Đến năm Canh Thân (1860) mới trở lại làm việc ở Kinh, được bổ làm Đốc học Nghệ An. Cha mẹ mất, ông về cư tang, mở trường dạy học, học trò gần xa đến học rất đông. Quan tỉnh tâu về triều xin bổ ông vào chức Đốc học Nghệ An (1863). Sau tăng Án sát Thanh Hoá, Tuần phủ Hưng Yên. Năm Tự Đức 26 (1873), bốn tỉnh Hà Nội, Hải Dương, Nam Định. Ninh Bình lần lượt thất thủ. Hưng Yên ở gần các tỉnh đó mà vẫn yên ổn, ông được Vua Tự Đức ban thưởng.
Sau vì ốm yếu nên ông cáo quan về quê hương dưỡng bệnh (3- 1876). Khi vua Hàm Nghi ra trạm sơn phòng Hà Tĩnh hạ chiếu Cần Vương, phong Nguyễn Đức Đạt làm Lại bộ Thượng thư kiêm Tổng đốc An Tĩnh. ông cùng với em con chú là Hoàng giáp Nguyễn Đức Quý chiêu lập nghĩa quân Cần Vương đóng ở đình làng Hoành Sơn. Sau vì thế cô, nghĩa quân phải rút vào rừng. Nguyễn Đức Đạt vì già yếu không đi theo ở lại ẩn lánh tại quê nhà rồi mất vào tháng 2 năm 1887. Thọ 63 tuổi:
Nguyễn Đức Đạt tự Khoát Như và Sĩ Bá, hiệu Khả Am. Bình sinh ông là người điềm đạm, lấy việc trước tác và dạy học làm vui, học trò nhiều người thành đạt. Tác phẩm có Nam Sơn tùng thoại, Nam Sơn song khoá, Hổ lạng thi, Vịnh sử thi, Việt sử thăng bình, Cần kiêm vựng biên, Khoá cổ ức thuyết v...v
B. THÁM HOA NGUYỄN VĂN GIAO (1812 - 18 64)
Người xã Trung Cần, tổng Trung Cần. huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Nay là thôn Trung Cần, xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cháu của Nguyễn Hữu Lập; em Nguyễn Trọng Dực; Chú của Nguyễn Đức Hậu.
Ông sinh năm Nhâm Thân (1812)
Năm 42 tuổi, đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh nhị danh (Thám hoa thứ hai) khoa Quý Sửu niên hiệu Tự Đức 6 (1853). Ông đã đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ (1834), nhưng vì quan chấm thi sửa điểm bị lộ nên ông bị đánh hỏng. Ông về quê mở trường dạy học, học trò theo học rất đông. Đến khoa Canh Tuất (1850) mới được thi lại, đến khoa Nhâm Tý (1852) tái trúng Cử nhân.
Sau khi thi đỗ Thám hoa, ông được bổ chức Hàn lâm viện Trước
tác, sung Nội các bí thư sở hành tẩu, thăng Thừa chỉ. Năm Tự Đức 12 (1859), thăng Thị giảng học sĩ. Năm Tự Đức 23 (1870), thăng Tham biện nội các sự vụ. Mất ở nơi làm quan. Thọ 53 tuổi. Sau khi mất được truy tặng hàm Quang Lộc tự khanh. Nổi tiếng có tài văn học, được Vua Tự Đức quý mến.
Nguyễn Văn Giao tự Đàm Như, hiệu Quất Lâm. Tác phẩm có Quất Lâm, Sử luận tập, Thập tam kinh thành củ.
76. KHOA BÍNH THÌN- TỰ ĐỨC 9 (1856)
A. THÁM HOA NGỤY KHẮC ĐẢN (1817- 1878)
Người xã Xuân Viên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ An. Nay là xã Xuân Viên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Con của Nguỵ Khắc Thận, cháu họ Nguỵ Khắc Tuần (Tiến sĩ khoa Bính Tuất- 1826), cháu họ Nguỵ Khắc Thành.
Ông sinh năm Đinh Sửu (1817). Đỗ cử nhân khoa Tân Sửu (1841).
Năm ông 40 tuổi, đỗ Đình nguyên Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) khoa Bính Thìn niên hiệu Tự Đức 9 (1856). Trước làm Huấn đạo huyện Can Lộc. Sau khi đỗ Thám hoa được bổ chủ (án sát Quảng Nam, hiệu Hàn lâm hiệu thảo. Được cử đi sứ sang Pháp (1863) trong sứ bộ Phan Thanh Giản. Khi trở về được bổ chức quyền Thượng thư bộ Binh, sau thăng Công bộ Thượng thư. sung Cơ mật viện. Tham biện. Bị ốm mất ở quê. Thọ 62 tuổi. Được truy tặng hàm Thự Hiệp biện đại học sĩ.
Bài văn sách thi Đình của ông lời lẽ rất xác đáng, được vua khen là “Hạc lập kê quần " (Chim Hạc đứng giữa đàn gà).
Nguỵ Khắc Đản, tự Thản Chi. Tác phẩm có Tây phù nhật ký, Như Tây ký.
77. KHOA ẤT SỬU- TỰ ĐỨC 18 (1865)
A . THÁM HOA ĐẶNG VĂN KIỀU (1824 - ?)
Người xã Phất Não, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Trạch Bình, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
(1)Khoa thi này (1856) lấy đỗ 6 Tiến sĩ, 1 Phó bảng.
Ông sinh năm Giáp Thân (1824).
Đỗ Cử nhân khoa thi Nhâm Tý (1852).
Năm 42 tuổi, đỗ Đình nguyên Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) khoa Nhã sĩ niên hiệu Tự Đức 18 (1865).
Nguyên thụ Hàm Thị giảng lĩnh chức Đốc học Quảng Nam, thăng Thị giảng phong Hàn lâm viện Thị độc học sĩ sung Sử quán Toản tu. ông là người thông hiểu sâu sắc về lý học.
Chuyện Kể về Thám hoa Đặng Văn Kiều(2)
Tại nhà thờ Thám hoa Đặng Văn Kiều ở xã Thạch Bình (xã Phất Não cũ) huyện Thạch Hà còn lưu giữ cờ, thẻ vinh quy, nhiều tài liệu, và đôi câu đối do một vị cử nhân người Thanh Hoá mừng ông sau khi thi đỗ:
Đại bút hùng văn, nhất giáp thạch bi truyền quốc sử, hoành từ nhã sĩ, thiên thu kim bảng trấn gia thanh. (Tay đại bút hùng văn, nhất giáp bia đá truyền sử trước; bậc hoành từ nhã sĩ, nghìn thu bảng vàng rạng tiếng nhà).
Đặng Văn Kiều, trước tên Đặng Duy Kiệu, hiệu Nghiêu Đình tiên sinh, sinh ngày 28 tháng bảy năm Giáp Thân (22-8-1824), là cháu mười đời vị thuỷ tổ Đặng Đại ở xã Phất Não. Chi họ này xưa đã có nhiều người học hành, là hiệu sinh, giám sinh... có người như Đặng Trạc (1733-?), đời thứ 7, đỗ tam tràng (sinh đồ) làm huấn đạo phủ Tiên Bình; Đặng Duy Thực đời thứ 9, chú ruột ông Kiều, là học trò Tiến sĩ Nguyễn Hoằng Nghĩa, thi hương nhiều lần nhưng không đỗ; lại có người như Đặng Duy Võ, bác ruột ông Kiều, từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Lê Hữu Tạo (Hầu Tạo) đời Gia Long, làm quân sư. Ông nội ông Kiều, Đặng Hựu, là Hiệu sinh, còn thân sinh ông, Đặng Duy Thận, còn có tên là Thuần (1795- 1848), có học, nhưng chỉ làm phó lý, sau khi con thành đạt, được tặng hàm Phụng thành đại phu, Hàn lâm viện thị giảng: thường gọi "cụ Tặng".
Gia phả chép: Một lần, ông Thận đưa dân phu đi đắp đường, đến chậm bị viên tri phủ quát nạt và đánh mấy chục roi. Uất ức quá, ông quyết nuôi con ăn học, dặn bảo con phải rửa nhục. Lúc này ông Kiều
(I). Khoa thi này (1865) lấy đỗ 5 Tiến sĩ.
(2). Theo tạp chí Văn hoá Hà Tĩnh số Đặc biệt 48-49/2001.
con trưởng, đang thụ giáo với cụ đồ Lê Thức ở Vĩnh Lại. ông Thận bán ruộng nương cố mời được vị thầy học nổi tiếng Phan Nhật Tính (18 16- ?) ở xã Yên Đồng, huyện La Sơn, cử nhân khoa Tân Sửu (1841) là Tiến sĩ khoa Nhâm Dần (1842), về nhà ngồi dạy các con.
Nhà khá giả, ông thích vui chơi nhưng không uống rượu đánh bạc, mà ham bắn chim. Ông bắn nỏ rất giỏi, bách phát bách trúng. Thầy học thấy vậy khuyên "Ông giết chim như vậy, sao đủ đức cho con cái thành đạt”. Ông liền chặt nỏ, bỏ hẳn thú vui ấy. Một lần khác, nhà hết dầu, ông sai người nhà đốt nửa soi cho thầy đọc sách. Thầy không bằng lòng, đòi về ông van xin thầy ở lại, rồi bán một sào ruộng, chất tiền dưới gầm bàn, chỉ dành để mua dầu cho thầy dùng. Không chỉ tôn kính thầy dạy học của con mà với bất cứ người nào ham học, học giỏi, ông đều quý trọng, tiếp đãi tử tế khi họ đến nhà, dù đó là bậc con cháu.
Vốn thông minh và chăm chỉ, lại có thầy giỏi, việc học của Đặng Văn Kiều vượt trội hẳn lên. Khoa Quý Mão (1843), 19 tuổi, ông đi thi Hương lần đâu và đỗ tú tài. Chính trong khoa này, ông đã được quan trường đổi tên Duy Kiệu thành Văn Kiều. Khoa sau, Bính Ngọ (1846), ông lại đỗ tú tài lần thứ hai. Đến khoa Nhâm Tý (1852) ông mới đỗ cử nhân thứ 6 và xuất chính.
Năm Giáp Dần (1854), ông được bổ giáo thụ phủ Quốc Oai, nhưng ít lâu sau phải xin về nghỉ để phụng dưỡng mẹ già. Năm Đinh Tỵ (1857) ông được thăng Hàn lâm viện Biên tu kinh trực tự, Thừa biện bộ Hình. Năm Canh Thân (1860), mẹ mất, ông về cư tang, rồi làm huấn đạo huyện Kỳ Anh. Năm Nhâm Tuất (1862), ông lại được triệu vào kinh làm chủ sự Bộ Hộ, nhưng đến năm Giáp Tý (1864), bị bệnh phải xin nghỉ, sau đó trở lại làm Tu soạn Viện Tập Hiền, sung Kinh diễn khởi cư chú.
Năm Ất Sửu (1865), niên hiệu Tự Đức thứ 18, ông thi đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) khoa Nhã sĩ (Sắc tứ đệ nhất giáp, đệ tam danh, nhã sĩ cập đệ đệ nhất danh). Lúc ông vào thi thì bà vợ cả Trần Thị Thái (1832- 1865) đang ốm, rồi qua đời. Trước đó, ông mộng thấy mình đỗ Thám hoa, tỉnh dậy kể chuyện với bà, bà không tin. Lúc trở về, ông vô cùng thương xót, khóc bà và nói rằng: “Bà ơi, tôi đỗ Thám hoa thật rồi, tôi có nói láp mô răng bà không chờ được?”.
Năm ấy, ông được thăng Hàn lâm viện Thị giảng, lĩnh đốc học
Bình Định (Theo gia phả sách "Đăng khoa lục" chép là Quảng Nam). Năm sau, Bính Dần (1866), ông được thăng thị giảng học sĩ, ra án sát Quảng Bình. .
Việc trông coi việc hình án ở một địa phương quả là không hợp với tạng người của ông. Vốn nhân từ, thanh liêm, ông không chịu được khi phải hành hạ người và bị mua chuộc vì tiền. Gia phả chép: Có lần tra khảo một tên trộm, ông sai lính đóng cửa lại, lấy roi đánh vào cây chuối, vì thương nó quá, tên trộm thấy vậy cảm động mà nhận tội, ông bèn tha cho. Có lần ông đang xử một vụ kiện, có người đưa đến nhà biếu một rá nếp, ông sinh nghi, sai người xem kỹ thì tận đáy rá có mấy nén bạc, ông liền trả lại và cảnh cáo người đưa biếu là “Dám khinh quan triều đình" rồi đuổi đi.
Ngoài số lương tiền ít ỏi chỉ đủ sống đạm bạc qua ngày, không có bổng lộc gì khác, nhiều lúc gặp khó khăn, ông phải đưa cả bộ phẩm phục thế chấp để vay nợ. Bà vợ kế thấy cảnh nhà luôn túng quẫn, thường phàn nàn, vẫn vi ông, ông chỉ cười và ngâm:
Nghĩ cuộc thanh liêm vua chúa trọng,
Hoá đường nghèo túng vợ con vân.
Ông Kiều tự thấy mình làm chính chức không phù hợp, bèn tâu xin cải bổ sang giáo chức. Năm Đinh Mão (1867) ông được cử đi làm Phó chủ khảo trường Thừa Thiên rồi về làm Chưởng giáo Tôn học đường. Năm Mậu Thìn (1868), ông được thăng Hàn lâm viện thị độc làm Phó chủ khảo trường Bình Định khoa Canh Ngọ (1870), đến năm Quý Dậu (1873), chuyển làm Toản tu Quốc sử quán, kiêm Biện lý bộ Lễ.
Theo gia phả thì năm Giáp Tuất (1874). ông được cử đi công cán hai lần, lần thứ hai vào tháng tư âm lịch (tức tháng 5 năm 1874) và một lần trước đó.
Lúc này, cả nước đang sôi sục phản đối việc triều đình Huế ký hoà ước Giáp Tuất (15-3- 1874) nhường hẳn sáu tỉnh Nam Kỳ cho Pháp. Cuộc khởi nghĩa “Cờ vàng" do Tú Tấn, Tú Mai (Nghệ An), Đội Lựu. Tú Khanh (Hà Tĩnh), cầm đầu đánh hạ đạo thành Hà Tĩnh, làm chấn động triều đình Huế. Ngoài các đạo quân ở tỉnh, vua Tự Đức phải sai Lê Bá Thận đưa quân ra đánh dẹp. Việc Đặng Văn Kiều được phái ra công cán chắc vì ông là người địa phương.
Về chuyến đi lần thứ nhất theo truyền ngôn, ông cho gọi học trò cũ của mình đến gặp, dặn rằng lúc ông đang ở lại thì hãy kiềm chế, tránh gây sự rắc rối, còn về sau thì cần hành động cho khôn khéo. Về triều, ông báo lên là tình hình ở Hà Tĩnh như rất yên tĩnh, không có gì đáng ngờ.
Về chuyến đi lần thứ hai, gia phả chép là vào tháng tư, nhưng chắc đây là lần thứ nhất đã nói ở trên, vì nghĩa quân “Cờ vàng: hạ đạo thành vào tuần hạ chí" (22 tháng 6 năm 1874, tức 9 tháng 5 năm Giáp Tuất) và đến tháng 7 năm 1874, đội quân của Lê Bá Thận, Nguyễn Đình Khoa mới được lệnh cấp tốc ra Hà Tĩnh. Một văn bản gốc đề ngày 21 tháng 8 năm Tự Đức thứ 27, hiện lưu tại nhà thờ, cho biết: “Bình Tĩnh quân quân thứ Thống đốc đại thần Lê (Bá Thận) tâu xin cử Đặng Văn Kiều giúp đạo viên Đốc đồng Nguyễn Hữu Chính chặn đường Truông Mây, Truông Bát đồn triệt thám nã những tên phiến loạn".
Theo truyền ngôn ở vùng Kỳ Anh thì Thám hoa Đặng Văn Kiều ra dẹp cuộc nổi dậy của Lân Biểu (Một tướng Cờ vàng dưới quyền Tú Khanh) đóng quân ở Hoả Hiệu. Nhưng một công văn còn lưu giữ được cho biết là Đặng Văn Kiều bị ốm, không có mặt trong cuộc hành quân. Gia phả chép cụ thể hơn: Khi được lệnh, ông Kiều nói với những người xung quanh: “Theo họ đi chém giết thì mặt mũi nào mà về quê cha đất tổ nữa!". Ra đến Quảng Bình, ông làm đơn cáo ốm nặng, xin ở lại chữa bệnh. Lê Bá Thận hiểu tâm trạng của ông nên bỏ qua, không truy cứu.
Sau sự việc này, Đặng Văn Kiều trở lại kinh đô, giữ chức cũ. Năm Bính Tý (1876) ông ra làm chủ khảo trường Thanh Hoá, rồi năm sau, | Đinh Sửu (1877) lại được cử làm Phó chủ khảo khoa thi Hội.
Ngày 14 tháng 7 năm Tân Tỵ (8-8-1881) ông mất tại nhiệm sở, được triều đình cấp 300 quan tiền tuất, và đưa quan tài về an táng tại quê nhà, gần nhà Văn thánh cũ.
Một văn bản gốc đề ngày 17 tháng 7 năm Tự Đức thứ 34 (1881) hiện giữ tại nhà thờ, trích dịch: “Viên này tòng sự đã gần ba mươi năm, hoạn huống thê lương, gia quán xa xôi, mà con là Đặng Văn Bá hiện còn nhỏ dại, tình cảnh thật đáng động lòng... xét Đặng Văn Kiều được thăng chức đã lâu, phẩm trật chỉ là Thị giảng học sĩ, sung sử quán Toản tu nay dâng sớ xin gia ân truy thụ Thị độc học sĩ, chẩn cấp tiền tuất ba trăm quan để chi dụng..." (Lá sớ do các đại thần Nguyễn Chánh. Nguyễn Trọng Hợp, Võ Văn Thanh, Tôn Thất Lương ký tên).
Một người học giỏi, đỗ đầu bảng khoa Nhã sĩ, làm quan đến tứ phẩm, lại nổi tiếng nhân từ và thanh liêm, vậy mà cuối đời, gia cảnh thật là éo le.
Lúc ông mất, hai con trai còn nhỏ dại. Đặng Văn Bá lên tám, Đặng Văn Đàn lên bốn. Về sau nối chí cha, hai người đều học hành thành đạt. Đặng Văn Đàn (1877- 1936) đỗ tú tài khoa Quý Mão, do chân ấm sinh, được phong Hàn lâm cung phụng. Đặng Văn Bá (1873- 1931) cũng như cha đỗ cử nhân thứ 6 khoa Canh Tý (1900), đồng niên với Giải nguyên Phan Bội Châu. Phan có câu đối mừng ông vế đối trên nói lên ý ấy:
Hoặc thị tác sinh duyên, ngẫu hướng vân biên tề ngũ phượng. (Như hẹn tự bao giờ, vỗ cánh tung mây kề ngũ phượng).
Đặng Văn Bá cũng là bạn đồng chí gần gũi với Phan Bội Châu, ông tham gia phái xã Hội Duy Tân do Phan lãnh đạo, bị bắt năm 1908, đày đi Côn Đảo 9 năm. Năm 1917, được tha về, ở Huế với Phan Bội Châu một thời gian rồi vào Sài Gòn, tìm đến thăm cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc rồi về quê làm thuốc, cày trại và mất năm 1931.
Cả hai anh em đều là nhà thơ. Thơ Đặng Văn Dàn nhàn tản, còn thơ Đặng Văn Bá thì chan chứa nhiệt thành:
......Má cười đã xếp con bài lại,
Tóc vuốt càng thò cái bạc ra
Cặp mắt trong xanh trời đất mới,
Lá gan
bầm tím nước non nhà...
(Làm ở Côn Đảo vào năm 43 tuổi)
Ý kiến bạn đọc