Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các triều đại Phong kiến Việt Nam

Thứ ba - 06/05/2025 07:01 17 0

Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các triều đại Phong kiến Việt Nam

KHOA TÂN HỢI- VĨNH KHÁNH 3 (1731) LÊ DUY PHƯỜNG

65. KHOA TÂN HỢI- VĨNH KHÁNH 3 (1731) LÊ DUY PHƯỜNG
Khoa thi này, Đệ nhất giáp, tam khôi không có Trạng nguyên, Bảng nhãn, chỉ có Thám hoa.
A. THÁM HOA ĐỖ HUY KỲ (1695-1748)
Người xã Thử Cốc, huyện Thủy Nguyên. Nay thuộc xã Thiệu Tâm,
(''. Khoa thi này (1727) lấy đỗ 10 Tiến sĩ.
huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
Trước đỗ khoa Sĩ Vọng, năm 37 tuổi, đỗ Đình nguyên, Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) khoa Tân Hợi”, niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời Lê Duy Phường.
Làm quan đến chức Thừa chính sứ, tước bá. Ông từng làm Chánh sứ nhà Thanh. Thừa chính sứ Hải Dương, tước Hoa Nhạc bá. Đi sứ năm Cảnh Hưng Mậu Thìn (1748).
Nhưng mới đi đến trạm Lã Côi thì lâm bệnh mất. Được truy tặng chức Lễ bộ Hữu thị lang.
66. KHOA QUÝ SỬU- LONG ĐỨC 2 (1733) LÊ THUẦN TÔNG
Khoa thi này, Đệ nhất giáp, tam khôi không có Trạng nguyên, Thám hoa chỉ có Bảng nhãn.
A . BẢNG NHÃN NHỮ TRỌNG ĐÀI (1696 - ?)
Người xã Hoạch Trạch, huyện Đường An. Nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Cháu nội của Nhữ Tiến Dụng (Tiến sĩ khoa Giáp Thìn - 1664), cháu họ Nhữ Đình Hiền (Tiến sĩ khoa Canh Thân- 1680), anh họ Nhữ Đình Toản (Tiến sĩ khoa Bính Thìn 1736), bác họ Nhữ Công Chân (Hoàng giáp khoa Nhâm Thìn - 1772).
Năm 38 tuổi, đỗ Đình nguyên. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Quý Sửu), niên hiệu Đức Long 2 (1733) đời Lê Thuần Tông.
Làm quan đến chức Hiến sát sứ.
67. KHOA BÍNH THÌN- VĨNH HỰU 2 (1736) LÊ Ý TÔNG
A . TRẠNG NGUYÊN TRỊNH TUỆ (1704 - ?)
Nguyên quán hương Sóc Biện Thượng, huyện Thượng Phúc. Nay thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Trú quán xã Bất Quần. Nay là thôn Thọ Sơn, xã Trường Lâm, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá.
Năm 33 tuổi, đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng
(. Khoa thi này (1731), lấy đỗ 12 Tiến sĩ. (2). Khoa thi này (1733) lấy đố 18 Tiến sĩ. nguyên) khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) đời Lê Ý Tông. Sử gia cũng như dư luận đương thời đều cho rằng khoa thi này chúa Trịnh Giang cố ý tổ chức thi Đình ở phủ Chúa (không phải ở điện Vua Lê như thường lệ), mà việc lấy Trịnh Tuệ đỗ Trạng nguyên là do sự bố trí của hoạn quan Hoàng Công Phụ. Chỉ mấy năm sau, cũng do Hoàng Công Phụ, Trịnh Tuệ được bổ ngay chức Tham Tụng, Thượng thư bộ Hình. Từ đó có ý lộng quyền. “Trong sướng ngoài họa... không còn kiêng sợ gì nữa, chính lệnh phiền toái, thưởng phạt sai trái". Đến khi Trịnh Doanh lên ngôi Chúa (1740), Trịnh Tuệ là phe đảng của Hoàng Công Phụ liền bị bắt giam mất mấy tháng. Sau triều đình xét lại, nghĩ ông người trong họ Trịnh, có thể không dự vào âm mưu phản nghịch. Nhờ đó mà được tha, bị giáng xuống Thừa chỉ. Sau lại được thăng đến chức Tổ tửu Quốc tử giám.
Khi mất được truy tặng hàm Hữu thị lang.
Giai thoại về Trạng nguyên Trịnh Tuệ ((2))
Trịnh Tuệ là cháu bốn đời của chúa Trịnh Tùng nhưng đến đời bố ông thì đã nghèo. Vì thế khi đã lớn mới được đi học, tính thông minh mẫn tiệp, lại có ý chí, suy ngẫm sâu sắc, tự lập tự cường, không dựa dẫm, ỷ thế dòng tộc nhà chúa mà biếng nhác. Khi đi học cầm sách liếc qua một lần là có thể thuộc lòng rồi. Năm Quý Mão niên hiệu Bảo Thái thứ tư (1723) thi Hương đỗ Tứ trường (Hương cống) ông được vời vào phủ Chúa làm đến Phó tri hình phiên. Đợi đến mãi năm ông 33 tuổi mới gặp kỳ thi đỗ Trạng nguyên. Ông thường kết bạn với Thực quận công Hoàng Công Phụ, hai người thường làm thơ xướng hoạ. Về sau Công Phụ mưu phản, đến khi Trịnh Doanh lên ngôi, bãi bỏ ông về quê, Doanh nghi ông có bè đảng với Phụ, sau lại dùng ông làm Quốc tử giám Tế tửu. Ông mất được tặng Hữu thị lang.
Sau khi ông đỗ Trạng nguyên có lời dị nghị rằng Trịnh Giang thiên tư cho ông đỗ, ông phẫn uất lắm.
Theo chế độ cũ, Cống sĩ hợp cách lại vào thi điện thì vua tự ra đề. Khoa ấy thi ngay ở Phủ đường Trịnh Giang. Ông đỗ đầu. Người bấy giờ nghi ngờ Trịnh Giang thiên vị với dòng họ này, vì họ này cống nhiều
(I). Khoa thi này (1736) lấy đỗ 15 Tiến sĩ.
Theo cuốn Khoa tàng về các ông Trạng Việt Nam. của. Ông thấy hơi ngượng. Một hôm ở con đường tại kinh đô, ông nói với mọi người rằng: "Tôi đỗ đầu mà nói là do Vương phủ thiên vị thì còn gọi gì là văn chương nữa! Nay muốn để khỏi nghi ngờ, mọi người đem các câu hỏi khó ở trong bất cứ sách nào về kinh sử, tử tập, hoặc y học, bói toán, lý số... tôi đều xin trả lời rõ ràng". Mọi người tranh nhau hỏi câu khó, ông đều ứng đáp trôi chảy. Cuối cùng có người phụ nữ nói rằng: “Chiếc đũa là vật không có chân, lúc thì gãy, lúc thì mất, nó chạy đi đâu, ở kinh điển nào?". Ông đáp: "Không thấy ở Thanh Hoá có núi chiếc đũa đó sao nó không có chân mà chạy về gốc đấy". Mọi người đều kính phục, tiếng dị nghị do đó dần dần hết.
Trịnh Tuệ là dấu chấm cuối cùng danh hiệu Trạng nguyên của lịch sử khoa cử Nho giáo Việt Nam.
B . THÁM HOA NGUYỄN QUỐC HIỆU (1696 - ?)
Người xã Phú Thứ, huyện Duy Tiên. Nay là thôn Phú Thứ xã Tiên Hiệp, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Năm 41 tuổi, đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) đời Lê ý Tông.
Làm quan đến chức Hiến sát sứ.

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập35
  • Hôm nay8,679
  • Tháng hiện tại280,078
  • Tổng lượt truy cập2,537,579
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây